Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại – Giá trị lý luận và thực tiễn
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức sâu sắc vai trò của hoạt động đối ngoại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại là hệ thống quan điểm về các vấn đề quốc tế, chiến lược, sách lược cách mạng Việt Nam trong quan hệ với thế giới. Các tư tưởng, nguyên tắc và phương châm chỉ đạo đó được thể hiện trong các giai đoạn cách mạng và là nền tảng cho mọi thắng lợi của ngoại giao Việt Nam suốt thời gian qua. Những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đối ngoại đã, đang và sẽ luôn là tư tưởng có giá trị to lớn chỉ đạo mọi chính sách và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỐI NGOẠI
Thực tiễn hoạt động cách mạng cùng nền tảng tri thức và vốn văn hóa đã kết tinh ở Hồ Chí Minh hệ thống tư tưởng toàn diện, sâu sắc. Trong đó, tư tưởng của Người về đối ngoại chứa đựng nhiều nội dung không chỉ bền vững qua thời gian, mà còn có những tư duy đi trước thời đại thể hiện những điểm sau:
- Xây dựng đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ đi đôi với chủ động mở rộng quan hệ quốc tế
Độc lập tự chủ là đặc điểm quán xuyến trong toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh, từ buổi đầu ra đi tìm đường cứu nước, lựa chọn con đường giải phóng dân tộc, xác định đường lối cơ bản cho cách mạng Việt Nam, cho đến việc hoạch định các chủ trương, chính sách cụ thể của Đảng và Nhà nước ta mỗi thời kỳ, trong đó đặc biệt là xây dựng đường lối đối ngoại và chính sách ngoại giao.
Độc lập tự chủ tức là dựa vào sức mình là chính, có tham khảo, chọn lọc kinh nghiệm, bài học của quốc tế, nhưng tự mình phải suy nghĩ, tìm tòi, định ra những chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm giải quyết công việc của đất nước, không chịu bất cứ một sức ép nào từ bên ngoài. Trong những năm 60 của thế kỷ XX, bắt đầu có sự rạn nứt, bất đồng trong phe xã hội chủ nghĩa, mâu thuẫn Xô-Trung ngày càng sâu sắc, cả hai nước lớn đều yêu cầu Việt Nam tỏ thái độ "nhất biên đảo". Mặt khác, Mỹ lợi dụng tình hình đó để chơi con bài Trung Quốc, chống Liên Xô và phe chủ nghĩa xã hội, dùng các điều kiện "mặc cả" để ép Việt Nam. Trong điều kiện đó, làm thế nào để giữ được đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ là vấn đề vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, với kinh nghiệm, trí tuệ và sự khôn khéo trong đường lối và hoạt động đối ngoại, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta, bằng nhiều hình thức gặp gỡ, trao đổi, đàm phán, tỏ rõ tình cảm quốc tế chân thành, trong sáng để kiên định lập trường đối ngoại độc lập, tự chủ, vừa duy trì được mối quan hệ tốt đẹp với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, tranh thủ được sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và làm thất bại âm mưu của Mỹ.
- Trong quan hệ đối ngoại, các quốc gia, dân tộc đều bình đẳng
Theo Hồ Chí Minh, trong quan hệ đối ngoại, không có sự bất bình đẳng dù là quan hệ giữa một quốc gia lớn với một quốc gia nhỏ hơn. Quan điểm đó được thể hiện rõ trong bản Thông cáo về Chính sách ngoại giao của Chính phủ lâm thời (10/1945), Hồ Chí Minh nêu rõ "Việt Nam hết sức thân thiện và thành thực hợp tác trên lập trường bình đẳng, tương ái với các nước nhược tiểu dân tộc trên toàn cầu, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng hợp tác thân thiện, hợp tác chặt chẽ trên nguyên tắc bình đẳng để ủng hộ lẫn nhau trong xây dựng và giữ vững nền độc lập"[1].
Từ tháng 1- 1950, trong Tuyên bố đi thăm Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ thân thiện với bất cứ một nước nào trên nguyên tắc: tôn trọng sự hoàn chỉnh về chủ quyền và lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội trị của nhau, bình đẳng, cùng có lợi và chung sống hòa bình”[2].
Như vậy, giữ vững đường lối đối ngoại và xây dựng các chính sách ngoại giao độc lập tự chủ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không trông, chờ ỷ lại, phụ thuộc cũng đã trở thành một nguyên tắc trong quan hệ đối ngoại.
- Chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Độc lập tự chủ không có nghĩa là tự cô lập, tách rời dân tộc với thời đại. Trong mối quan hệ dân tộc và quốc tế, Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh tinh thần độc lập tự chủ “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, coi sức mạnh bên trong bao giờ cũng là yếu tố quyết định, đồng thời Người cũng khẳng định: cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, muốn giành được thắng lợi, cách mạng Việt Nam phải tranh thủ được sự ủng hộ giúp đỡ của cách mạng thế giới.
Ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh đã thực hiện được trong đường lối chính trị của mình kết hợp nhuần nhuyễn giữa lợi ích dân tộc với nghĩa vụ quốc tế, sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài, cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc.
Nhờ đường lối đó, trong kháng chiến cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta luôn nhận được sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn của các nước anh em, của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Bên cạnh đó, Người cũng nhắc nhở phải hoàn thành nghĩa vụ quốc tế, coi "giúp bạn là tự giúp mình", nhất là đối với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia.
- Xây dựng và thực thi đường lối đối ngoại rộng mở, tăng cường quan hệ hợp tác với tất cả các nước, các lực lượng dân chủ tiến bộ trên thế giới
Phát huy truyền thống hòa hiếu của dân tộc, sau khi giành được độc lập, với tư cách là người đứng đầu chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố "Chính sách ngoại giao của Chính phủ chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa bình"[3]
Trong Lời kêu gọi Liên hợp quốc (12/1946), Người cũng nêu rõ quan điểm:
"Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực... Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức kinh tế quốc tế dưới sự chỉ đạo của Liên hợp quốc"[4]
Đó là quan điểm đối ngoại hết sức rộng mở, sẵn sàng hợp tác với tất cả các quốc gia, kể cả với Pháp- một nước vốn cai trị, áp bức dân tộc Việt Nam; tuy nhiên, sự hợp tác phải dựa trên những nguyên tắc nhất định.
Do đó, theo Hồ Chí Minh, trong quan hệ đối ngoại, quyền lợi của quốc gia dân tộc, của nhân dân phải đặt lên hàng đầu; quan điểm “các dân tộc trên thế giới đều bình đẳng”, sự hợp tác trên cơ sở tự nguyện, đồng thời trở thành nguyên tắc cùng có lợi trong mối quan hệ này.
- Quan điểm giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp bằng đàm phán hòa bình, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực
Theo Hồ Chí Minh, hòa bình là lợi ích của tất cả các dân tộc, do đó phải đấu tranh cho hòa bình trên thế giới được bền vững: “Giữ gìn hòa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước ta. Vì lợi ích của nhân dân lao động khắp thế giới là nhất trí”[5]. Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Nhân dân Việt Nam vĩnh viễn không để cho bất cứ kẻ nào xâm lược nước mình, đồng thời cũng vĩnh viễn không xâm lược nước khác”[6].
Người cho rằng, muốn giữ được độc lập dân tộc và phát triển đất nước, phải tăng cường hợp tác và đoàn kết quốc tế, lấy tinh thần thiện chí, hòa bình để giải quyết những bất đồng trên cơ sở gắn lợi ích dân tộc với lợi ích các nước trong khu vực và lợi ích chung của nhân loại. Tuy nhiên, nếu để xảy ra bất đồng, mâu thuẫn, tranh chấp quyền lợi... giữa các quốc gia, thì phải giải quyết bằng đàm phán, đối thoại hòa bình. Ngay cả khi phải tiến hành cuộc đấu tranh một mất, một còn với bọn thực dân để giành độc lập dân tộc, Người cũng luôn tìm kiếm mọi cơ hội đối thoại, đàm phán nếu có thể để tránh một cuộc chiến bạo lực.
- Trong quan hệ đối ngoại, phải xây dựng thực lực
Đó là quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng thế và lực, thực hiện các hình thức, phương pháp để tạo thế-lực trong quan hệ đối ngoại. Người nói "Thực lực là cái chiêng, ngoại giao như cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn" ..."ngoại giao ai thuận hơn, thì thắng"[7]
Mức độ của độc lập tự chủ trong ngoại giao phụ thuộc vào thực lực chính trị, kinh tế, quân sự... của đất nước, nhưng cũng còn phụ thuộc vào trình độ tư duy, trí tuệ, kinh nghiệm, phương pháp, khả năng ứng xử,...của Đảng và lãnh tụ trong hoạt động và chỉ đạo ngoại giao, song quan trọng nhất là thực lực, Hồ Chí Minh nói: “Nếu mình chưa có lực lượng làm cơ sở thì khoan hãy nói đến ngoại giao”[8]. Đó là sự thể hiện mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng giữa mặt trận ngoại giao với mặt trận quân sự, mặt trận chính trị.
Dưới sự ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện qua các nghị quyết của Đảng trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, nước ta đã thực hiện sự phối hợp đấu tranh có hiệu quả trên cả 3 mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao; vừa đánh vừa đàm; huy động sức mạnh ngoại giao của Nhà nước và ngoại giao nhân dân với hoạt động quốc tế của Đảng để giành thắng lợi.
- Kiên định về mục tiêu, linh hoạt về sách lược, luôn giữ thế tiến công nhưng biết nhân nhượng, thỏa hiệp đúng lúc, đúng nguyên tắc để giành thắng lợi từng bước tiến đến giành thắng lợi hoàn toàn
Mục tiêu nhất quán của Hồ Chí Minh là phấn đấu xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của cách mạng, căn cứ vào tương quan lực lượng và tình hình quốc tế, mục tiêu chung đó thường được cụ thể hóa thành những mục tiêu từng bước và có sự điều chỉnh linh hoạt co phù hợp với diễn biến của tình hình. Điều quan trọng là mục tiêu từng bước phải tạo cơ sở vững chắc để tiến tới mục tiêu cuối cùng.
Hay nói khác hơn, bất luận trong hoàn cảnh nào, trong quan hệ đối ngoại cũng phải kiên định về mục tiêu, luôn luôn giữ thế tiến công, nhưng biết nhân nhượng, thỏa hiệp đúng lúc, đúng nguyên tắc để giành thắng lợi từng bước, đi tới thắng lợi hoàn toàn.
Hồ Chí Minh là người kiến quyết đấu tranh cho mục tiêu độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, nhưng Người cũng là nhà ngoại giao biết thương lượng, có đầu óc thực tế, biết tìm mẫu số chung cho mỗi cuộc đối thoại. Người luôn nhắc nhở cán bộ ta là: trong đấu tranh ngoại giao phải kiên trì, chớ nôn nóng, muốn đạt ngay mục tiêu cuối cùng. Kẻ thù dù thất bại, buộc phải xuống thang, nhưng vì thể diện, nó cũng chỉ xuống thang dần dần. Ta cũng phải biết thắng từng bước.
- Xây dựng và thực hiện đường lối đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt trong quan hệ với các nước lớn
Các nước lớn luôn có vị trí và ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế. Quan hệ giữa các nước lớn thường có tính chất đấu tranh trong thỏa hiệp. Do đó, coi trọng và xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn mang ý nghĩa quan trọng đến sự hợp tác và phát triển của nước ta cũng như trên thế giới.
Quan điểm của Hồ Chí Minh khí xử lý mối quan hệ phức tạp, đặc biệt với các nước lớn là phải khôn khéo, linh hoạt, kịp thời và cộng đồng lợi ích để các nước lớn ràng buộc lẫn nhau. Phải kiên trì đấu tranh, không ảo tưởng. Phương châm xử lý quan hệ với các nước lớn là “dàn xếp sao cho đại sự thì thành tiểu sự và tiểu sự thì thành vô sự”; giải quyết mọi vấn đề bằng đàm phán hòa bình, trên cơ sở thương lượng.
Trong quan hệ quốc tế nói chung và trong quan hệ với các nước lớn nói riêng, đường lối đối ngoại và chính sách ngoại giao phải được hoạch định trên cơ sở giữ vững lập trường, nguyên tắc theo mục tiêu chiến lược của cách mạng, giữ vững độc lập, tự chủ, không dao động ngả nghiêng trước bất cứ áp lực nào, phải trên tinh thần “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
- Thực hiện đường lối đối ngoại thân thiện, ưu tiên các nước láng giềng cùng chung đường biên giới
Trong quan hệ với các nước láng giềng, khu vực, đặc biệt là Trung Quốc, Lào, Camphuchia. Một mặt Hồ Chí Minh chú ý tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, mặt khác, Người luôn luôn khẳng định nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung, với tư tưởng “Giúp bạn là tự giúp mình” , tạo ra mối quan hệ "vừa là đồng chí, vừa là anh em". Người cũng căn dặn hết sức coi trọng thiết lập mối quan hệ láng giềng với các nước trong khu vực có chế độ chính trị khác nhau
Tóm tại, thiên tài ngoại giao Hồ Chí Minh đã ứng xử khôn khéo các mối quan hệ chồng chéo, phức tạp của bối cảnh quốc tế lúc bấy giờ với sự chân thành, thiện chí để thuyết phục kẻ thù và chinh phục bạn bè, đem lại lợi ích cho Tổ quốc, cho nhân dân.
- Phương châm thêm bạn, bớt thù, lợi dụng mâu thuẫn của kẻ thù
Phương châm chỉ đạo trong quan hệ đôi ngoại của Hồ Chí Minh là phải biết tập hợp lực lượng, khai thác phát huy những điểm tương đồng giữa các quốc gia, hài hòa lợi ích chung để có nhiều đồng minh, ít kẻ thù. Biết khai thác mâu thuẫn của kẻ thù, chia rẽ làm suy yếu chúng mới giành được thắng lợi. Điều này đã được Hồ Chí Minh thực hiện rõ trong thời điểm xử lý mọi mối quan hệ của quốc gia năm 1945-1946.
Trong quan hệ song phương hoặc đa phương, phải phân biệt rõ đối tượng là bạn hay thù, là đồng minh chiến lược lâu dài, hay chỉ là đối tác liên minh tạm thời mang tính sách lược, để có đối sách phù hợp. Do vậy, mở rộng hợp tác liên minh với tất cả các lực lượng có thể liên minh được để thực hiện mục tiêu chiến lược cách mạng, nếu không thể hợp tác toàn diện thì tùy theo hoàn cảnh thực tiễn mà hợp tác trên từng lĩnh vực.
2. GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỐI NGOẠI
Hồ Chí Minh đã đúc kết nhiều nguyên lý, quan điểm về đối ngoại có giá trị lý luận và thực tiễn vô cùng to lớn. Góp phần là nên thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược. Tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh cũng là những nguyên lý soi sáng cho con đường cách mạng Việt Nam không chỉ trong công chuộc đấu tranh giải phóng cho dân tộc mà còn có ý nghĩa to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
- Giá trị lý luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại đã bổ sung các giá trị mới vào truyền thống văn hóa ứng xử, truyền thống ngoại giao của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa và ngoại giao của nhân loại, vận dụng các nguyên tắc trong quan hệ quốc tế của chủ nghĩa Mác -Lênin. Nội dung xuyên suốt trong tư tưởng của Người về quan hệ quốc tế là "Không có gì quý hơn độc lập tự do", là "Làm bạn với tất cả các nước dân chủ và không gây thù oán với một ai". Chứa đựng trong đó là các quyền dân tộc cơ bản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là độc lập, tự chủ, tự lực tự cường gắn liền với đoàn kết và hợp tác quốc tế, là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, là hòa bình và chống chiến tranh xâm lược, hữu nghị và hợp tác với các nước lớn nhỏ,...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại cùng với thực tiễn hoạt động ngoại giao của Người đã có giá trị chỉ đạo chiến lược đối với hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Chính nhờ Đảng và Nhà nước ta luôn thấm nhuần và vận dụng tư tưởng của Người về quan hệ quốc tế trong xây dựng đường lối đối ngoại và chính sách ngoại giao trong những giai đoạn và thời khắc lịch sử cụ thể, với đường lối ngoại giao công tâm và "dĩ bất biến ứng vạn biến", phong cách ngoại giao tự chủ và sáng tạo, nghệ thuật ngoại giao "biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến", ngoại giao Việt Nam đã trở thành một mặt trận và một binh chủng hợp thành của Cách mạng Việt Nam.
Ngày nay, trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, chúng ta đang đứng trước những thuận lợi, thời cơ lớn, cùng những khó khăn, thách thức không nhỏ. Tình hình quốc tế và khu vực luôn biến động và chứa đựng nhiều yếu tố bất trắc, khó lường. Làm sao nhận biết đúng đắn những chuyển biến đó, ứng xử kịp thời và thỏa đáng trước mỗi tình huống, với từng đối tượng, tranh thủ tối đa cái có lợi nhất và hạn chế xuống mức thấp nhất cái bất lợi cho đất nước. Làm sao tạo dựng và duy trì môi trường quốc tế và khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Làm sao nhận biết và nắm bắt được cơ hội, hóa giải được nguy cơ thách thức để bảo vệ và thực hiện tốt nhất lợi ích của quốc gia, dân tộc... Đây là những bài toán khó mà ngoại giao đang và phải tiếp tục tích cực góp phần tìm ra lời giải.
Trong những hoàn cảnh như lúc này, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại càng tỏ rõ ý nghĩa và giá trị to lớn trong việc định hướng để Đảng và Nhà nước ta xây dựng đường lối đối ngoại.
Không chỉ có giá trị định hướng đối với việc xây dựng đường lối đối ngoại và chính sách ngoại giao ở nước ta, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại còn mang tầm vóc thời đại. Những tư tưởng về đối ngoại mà Hồ Chí Minh đã đưa ra và thực hiện hoàn toàn phù hợp với xu thế chung của thế giới ngày nay. Vì vậy, nó trường tồn mãi mãi và có thể vận dụng để giải quyết những vấn đề lớn về mối quan hệ giữa các dân tộc mà thời đại ngày nay đang đặt ra, góp phần làm phong phú kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về những vấn đề thời đại và quan hệ quốc tế, cung cấp nhiều kinh nghiệm quý báu để các quốc gia, dân tộc trên thế giới vận dụng vào xây dựng đường lối đối ngoại của quốc gia, dân tộc mình và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.
- Giá trị thực tiễn
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại được vận dụng trong cách mạng Việt Nam đã góp phần làm nên thắng lợi to lớn của dân tộc ta; do có đường lối đối ngoại đúng đắn, phù hợp, cách mạng Việt Nam đã tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới, phát huy sức mạnh thời đại, hoàn thành sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và thống nhất tổ quốc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại của Người đã góp phần to lớn vào những thắng lợi của cách mạng nước ta. Chính nhờ Đảng và Nhà nước ta luôn thấm nhuần và vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về đối ngoại trong xây dựng đường lối đối ngoại và chính sách ngoại giao trong những giai đoạn và thời khắc lịch sử cụ thể, với đường lối ngoại giao công tâm và "dĩ bất biến ứng vạn biến", phong cách ngoại giao tự chủ và sáng tạo, nghệ thuật ngoại giao "biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến", ngoại giao Việt Nam đã trở thành một mặt trận và một binh chủng hợp thành của Cách mạng Việt Nam. Điều này được thể hiện rất rõ trong thực tiễn cách mạng Việt Nam gần một thế kỷ qua, đặc biệt là trong thời kỳ chúng ta đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới để giành và bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc. Trên cơ sở phân tích, nhìn nhận, đánh giá tình hình thế giới và mối tương quan trong quan hệ quốc tế, khu vực để xây dựng chiến lược, sách lược đối ngoại, ngoại giao. Không dựa vào tình hình chủ quan, cục bộ.
Trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền và trong kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh và Đảng đã luôn luôn coi trọng công tác đối ngoại, luôn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và không ngừng xây dựng, mở rộng khối đoàn kết quốc tế, đặc biệt là với các dân tộc thuộc địa, với phong trào công nhân và các lực lượng tiến bộ trên thế giới, trong đó có cả nhân dân tiến bộ Pháp, nhân dân tiến bộ Mỹ, nên đã tranh thủ được sự đồng tình, giúp đỡ rất lớn của thế giới đối với sự nghiệp cách mạng của nước ta, tạo ra sức mạnh tổng hợp to lớn để chiến thắng kẻ thù, giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Đồng thời, chúng ta cũng đã đóng góp to lớn vào sự thắng lợi chung của nhân dân thế giới trong đấu tranh chống thực dân, đế quốc, bảo vệ nền hòa bình của nhân loại.
Cũng trong thời kỳ đó, trong đấu tranh ngoại giao với kẻ thù, chính nhờ Đảng và Nhà nước ta đã quán triệt sâu sắc những quan điểm, nguyên tắc và phương pháp trong quan hệ quốc tế của Hồ Chí Minh, cùng với sự hoạt động tích cực và nghệ thuật ngoại giao khôn khéo của Hồ Chí Minh, cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao với kẻ thù đã từng bước làm thất bại những âm mưu của họ, cô lập chúng trên trường quốc tế, góp phần cùng với thắng lợi trên mặt trận quân sự buộc kẻ thù phải chấp nhận thất bại, phải tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước ta
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại được Đảng ta vận dụng sáng tạo trong thời kỳ đổi mới, đã phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch; tạo ra môi trường quan hệ quốc tế thuận lợi, thúc đẩy tiến trình hội nhập và hợp tác quốc tế, góp phần quan trọng vào thành công của sự nghiệp đổi mới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại không những có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với dân tộc mà còn mang tầm vóc thời đại, tư tưởng hòa bình, hợp tác, hữu nghị, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Người hoàn toàn phù hợp với xu thế chung của thế giới ngày nay.Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại, Đại hội XIII của Đảng đã hoạch định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, kiên định mục tiêu bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, đồng thời cũng thể hiện tinh thần hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia của các dân tộc trên thế giới. Những quan điểm chỉ đạo mới tại Đại hội XIII của Đảng về đối ngoại thể hiện mạnh mẽ tính kế thừa và tinh thần đổi mới tư duy, phù hợp xu thế phát triển của quốc tế và những thay đổi của đất nước.
Hồ Chí Minh không chỉ là Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà tư tưởng lỗi lạc mà còn là Nhà đối ngoại thiên tài, người tạo dựng và dẫn dắt nền đối ngoại cách mạng non trẻ. Toàn bộ những tư tưởng đối ngoại toàn diện và sâu sắc của Người là kim chỉ nam hành động, “là lực lượng vật chất” cách mạng Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Phạm Ngọc Anh (chủ nghiệm): Giáo trình phần chuyên ngành Hồ Chí Minh học. Chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ. Hà nội -2013.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011.
3. Nguyễn Dy Niên: Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, h. 2002.
[1] Báo Cứu quốc, số 57, ngày 05/10/1945
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.10, tr.12.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H. 2011, t.5, tr.30.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H. 2011, t.4, tr. 470.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H. 2011, t7, tr.228.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H. 2011, t11, tr.268.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H. 2011, t11, tr.296.
[8] Dẫn theo: Chủ tịch Hồ Chí Minh- Tiểu sử là sự nghiệp, Nxb. Sự thật, H, 1987, tr.115.
Th.S Nguyễn Thị Lê Vân - Trường Chính trị Bình Dương