Giải pháp phát huy vai trò chủ thể của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam hiện nay
Bài viết nghiên cứu vai trò chủ thể của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những vai trò đó được thể hiện khi nhân dân là động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước; nhân dân giữ vai trò chru đạo, là trung tâm trong xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh dân tộc; nhân dân đóng vai trò hết sức quan trọng trong đổi mới đất nước. Đồng thời là chủ thể, là trung tâm của sự nghiệp bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm dân là gốc; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện nguyên tắc "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bài học kinh nghiệm này là kết quả tổng kết lý luận và thực tiễn lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh - người đã kế thừa xuất sắc và nâng tầm tư tưởng coi dân là gốc của nước từ các vị minh quân - khi nói rằng: “Nước lấy dân làm gốc…Gốc có vững cây mới bền / Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân. Đó còn là kết quả tổng kết thực tiễn, lý luận sau hơn 35 năm đổi mới đất nước.Nhờ nắm vững và vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo quan điểm dân là gốc, thật sự tin tưởng và tôn trọng nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc v.v. mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên những thắng lợi hết sức to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
NỘI DUNG
Bài học kinh nghiệm được Đảng ta rút ra: trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” đã khẳng định vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Vai trò chủ thể, vị trí trung tâm đó biểu hiện ở những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nhân dân là nguồn lực, là động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tin tưởng vào sức mạnh và trí tuệ của nhân dân, Người khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Cách mạng muốn thành công thì phải dựa vào: “Lực lượng của dân, Tinh thần của dân”. Người nói: “Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra” và Người nhấn mạnh: “Làm việc gì cũng phải có quần chúng. Không có quần chúng thì không thể làm được… Cho nên việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc, khó mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt. Các đồng chí ở Quảng Bình nói rất đúng: Dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn lực nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, một trong những quan điểm chỉ đạo thực hiện đường lối đổi mới trong giai đoạn tiếp theo được Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra là: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh
thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hoá, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” Đặc biệt phải có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài một cách hợp lý; đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Có thể khẳng định: ý chí tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sức sáng tạo, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc v.v. là động lực, là sức mạnh hết sức to lớn giúp nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức để giành lấy thắng lợi ngày một to lớn hơn. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, chưa bao giờ và chưa lúc nào đứng trước khó khăn, thử thách mà sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng vươn lên của người dân Việt Nam bị khuất phục, bị suy yếu. Càng khó khăn, thách thức thì ý chí, sức mạnh, khát vọng con người Việt Nam càng trỗi dậy, càng vươn cao.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, hoàn thiện thể chế, khơi dậy ý chí, tiềm năng, nguồn lực cho phát triển. Phát huy mạnh mẽ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam, vai trò của khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, tất cả đó là nguồn động lực mới, sức mạnh nội sinh to lớn, quan trọng để đất nước ta phát triển nhanh, bền vững hơn.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập thế giới, để đi tắt, đón đầu, để “bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới” nhằm đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững, Đại hội XIII nhấn mạnh tới sự cần thiết phải: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”
Thứ hai, nhân dân là chủ thể, là trung tâm trong xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam. Văn hóa, con người không có sức mạnh tự thân cũng giống như vật chất chỉ bộc lộ thuộc tính của mình thông qua vận động. Giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam chỉ được phát huy, khơi dậy khi chủ thể của nó là con người sống, hoạt động, giao tiếp với thế giới xung quanh. Bản thân văn hóa là cái của con người, do con người và vì con người. Không có con người sống, hoạt động, giao tiếp thì không có văn hóa.
Văn hóa Việt Nam là “thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn
thiện mình. Tập trung xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.
Để phát huy giá trị, sức mạnh văn hóa Việt Nam, Đại hội XIII chủ trương: “triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hoá và dịch vụ văn hoá trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hoá Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị và thành tựu mới của văn hoá, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới”
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập thế giới hiện nay, văn hóa Việt Nam - với tư cách là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam - càng có nhiều cơ hội để lan tỏa ra thế giới. Cái hay, cái đẹp trong ngôn ngữ, trong âm nhạc, trong các loại hình nghệ thuật Việt Nam hay tính nhân văn trong văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp v.v của người Việt không chỉ là sức mạnh nội sinh đối với sự phát triển bền vững của đất nước mà còn có sức lan tỏa đến nhiều nền văn hóa, đến nhiều quốc gia, thu hút hàng triệu trái tim, khối óc của người dân đến từ nhiều quốc gia - dân tộc khác nhau trên thế giới.
Qua sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam và nhiều kênh khác, thế giới biết nhiều hơn về một Việt Nam giàu đẹp, hiếu khách, kiên cường, hòa hiếu, thủy chung với hàng nghìn năm văn hiến; uy tín và ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng tăng; dấu ấn Việt Nam ngày càng sâu đậm; sức mạnh mềm của Việt Nam nói chung, của văn hóa Việt Nam nói riêng ngày càng được nhân lên gấp bội, trở thành một trong những động lực thúc đẩy kinh tế, xã hội Việt Nam ngày càng phát triển.
Những thành tựu trên đây là kết quả của quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ đầy sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, có hiệu quả, kịp thời của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Những thành tựu đó là sự khẳng định vai trò chủ thể, trung tâm của nhân dân trong xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam.
Thứ ba, vai trò chủ thể, trung tâm của nhân dân trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; ứng dụng và phát triển khoa học, công nghệ.
Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Mục tiêu của nền giáo dục Việt Nam là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đảng ta xác định, giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo, ngân sách nhà nước chi cho giáo dục và đào tạo tối thiểu ở mức 20% tổng chi ngân sách. Đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa nền giáo dục (tác giả nhấn mạnh), trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Có chính sách khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong giáo dục và đào tạo trên cơ sở bảo đảm quyền lợi của người học, người sử dụng lao động và cơ sở giáo dục, đào tạo. Quan điểm này của Đảng ta khẳng định vai trò chủ thể, trách nhiệm xã hội của mọi người dân đối với nền giáo dục nước nhà.
Đối với lĩnh vực khoa học và công nghệ, chủ trương tập trung, phát huy mọi nguồn lực thúc đẩy khoa học, công nghệ phát triển đồng bộ: khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị. Đồng thời xác định vai trò của các chủ thể đóng góp cho sự phát triển của khoa học, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân theo tinh thần: dân biết, dân làm, dân thụ hưởng.
Thứ tư, nhân dân là chủ thể, là trung tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Xây dựng đất nước đi đôi với bảo vệ Tổ quốc đã trở thành quy luật trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Một trong những Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030 là: Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có quan hệ “giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” với quan điểm chỉ đạo: Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên (tác giả nhấn mạnh).
Trong bối cảnh hiện nay thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế; hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan đang là thách thức lớn đối với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu đứng trước những thách thức lớn. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới trong nước, chúng ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. “Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định và thích ứng với biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp thiết, đồng thời là những thách thức rất lớn đối với nước ta trong thời gian tới.”
Đứng trước tình hình đó việc chủ động đấu tranh kịp thời, có hiệu quả, từng bước đẩy lùi các loại tội phạm giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng ngừa và ứng phó kịp thời với các mối đe doạ an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống; làm thất bại âm mưu và hoạt động "diễn biến hoà bình", can thiệp, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phản động âm mưu chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và của nhân dân ta.
Để thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hoa; bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Như vậy cả nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp, nhân dân là chủ thể, là trung tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Nói cách khác củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt.
KẾT LUẬN
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử, là động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước. Một trong những bài học kinh nghiệm được Đảng rút ra là: trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của cônguộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bài học kinh nghiệm này xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam, góp phần đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Vai trò chủ thể của nhân dân trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc biểu hiện ở chỗ: nhân dân là chủ thể, là trung tâm trong xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam. Nhân dân còn là người đóng vai trò hết sức to lớn trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; ứng dụng và phát triển khoa học, công nghệ và là chủ thể, là trung tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
ThS Võ Văn Ninh Giang - Trường Chính trị tỉnh Bình Dương