Hồ Chí Minh với việc chăm lo đời sống nhân dân
TTBD-Trong cuộc đời làm cách mạng, mối quan tâm lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh là không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân” (1), phát huy mọi nguồn lực vốn có trong dân để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân.
Đó chính là triết lý, là phương châm hành động trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Vì theo Người: Tất cả của cải vật chất trong xã hội, đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát triển. Nên, Người luôn đặt dân lên vị thế người làm chủ đất nước; trong tất cả mọi việc, kể cả huy động sức dân trước hết vẫn là vì chính lợi ích của dân, vì theo Người lợi ích của dân càng cao, sức dân càng mạnh.
1. Hồ Chí Minh chăm lo đời sống cả vật chất và tinh thần của nhân dân
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo đời sống cả vật chất và tinh thần của nhân dân.
Trả lời phỏng vấn của các nhà báo nước ngoài ngày 21-1-1946, Hồ Chí Minh đã nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” (1). Người nhấn mạnh: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ” (2). Người yêu cầu Chính phủ cần thực hiện ngay:
Làm cho dân có ăn.
Làm cho dân có mặc.
Làm cho dân có chỗ ở.
Làm cho dân có học hành. (3)
Sau khi nước nhà mới được thành lập (9/1945), chính quyền cách mạng non trẻ phải đối mặt với vô vàn khó khăn, thiếu thốn và phức tạp bởi “thù trong, giặc ngoài”; cùng một lúc phải chống 3 thứ giặc: “giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (3/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra một số nhiệm vụ cấp bách, yêu cầu Chính phủ chỉ đạo giải quyết ngay là: Phát động phong trào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, tổ chức quyên góp gạo “Hũ gạo tiết kiệm” cứu dân nghèo; phát động phong trào Bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ; bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò; thực hiện quyền tự do, dân chủ,... là những nội dung, biện pháp và bước đi quan trọng để từng bước chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Những giải pháp hữu hiệu đó đã từng bước đưa đất nước vượt qua thời kỳ khó khăn, thử thách. Người đề nghị Chính phủ lâm thời phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm để cứu đói. Trong thư Gửi nông gia Việt Nam, Người khẩn thiết kêu gọi: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập” (4). Để cứu đói dân nghèo trước khi thu hoạch vụ mùa, Người kêu gọi sẻ cơm nhường áo trên tinh thần “lá lành đùm lá rách” và gương mẫu thực hiện trước, “cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa, mỗi bữa nhịn một bơ”. Và đem gạo đó để cứu dân nghèo. Sau một thời gian ngắn phát động, nhân dân cả nước đã quyên góp được một lượng lớn lương thực và nạn đói sớm được khắc phục.
Khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương của tiền tuyến lớn miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, chăm lo đời sống, hạnh phúc của nhân dân là một trong những mục tiêu quan trọng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Nhà nước ta hướng tới. Người cho rằng: Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động” (5).
Trước lúc đi xa, Người căn dặn trong Di chúc: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.” (6). Người mới căn dặn chúng ta là phải luôn thương dân, chăm lo đời sống cho Nhân dân mà cả cuộc đời của Người luôn bằng những hành động thiết thực chăm lo cho đời sống Nhân dân.
Trên thế giới này không có một lãnh tụ nào như Hồ Chí Minh, chỉ 24 năm đứng đầu Nhà nước đã có tới 700 lần đến với nông dân, với đồng bào, với cơ sở; từ nông thôn đến vùng cao, vùng sâu, vùng xa; từ đồng bào nghèo miền núi, rẻo cao đến đồng bào nghèo miền xuôi, đô thị để được gần dân, hiểu dân, lắng nghe Nhân dân, chỉ bảo, bàn bạc với Nhân dân về phát triển kinh tế, chăm lo mọi mặt đời sống cho Nhân dân bằng những hành động cụ thể. Mỗi lần đến với Nhân dân là mỗi lần Bác đã hóa thân với đồng bào mình. Về thăm lại Pác Pó năm 1961, thấy đồng bào tổ chức đón tiếp, Người nói: “Tôi về thăm nhà mà sao lại phải đón tôi”; những ngày cuối đời - nước lũ sông Hồng dâng cao, Trung ương Đảng xin phép đưa Bác đi tránh lũ, Bác bảo: “Không thể bỏ dân mà đi được. Đưa Bác đi, các chú chỉ đưa được mình Bác, còn dân thì sao, trước hết hãy lo cho dân”. Thật đạo nghĩa!
2. Giải pháp nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
Để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, theo Hồ Chí Minh phải thực hiện các giải pháp sau:
- Phát huy vai trò lãnh của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong hoạch định, lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực thi đường lối phát triển kinh tế, văn hóa.
Trước hết, là cần phát huy vai trò lãnh của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong hoạch định, lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực thi đường lối phát triển kinh tế, văn hóa..
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để chăm lo tốt cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân: Đảng phải đề ra đường lối đáp ứng yêu cầu của nhân dân Người cho rằng: “Tất cả đường lối, phương châm, chính sách... của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân” (7). Trong Di chúc Người căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” (8). Vì “đầu tiên là công việc đối với con người”, nên Người căn dặn phải chăm lo cho các đối tượng “cán bộ, binh sĩ, dân quân du kích, thanh niên xung phong” để họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mọi người; quan tâm đến “cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu”, thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét.
Thứ hai, Phải xây dựng nhà nước thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Công việc của Chính phủ phải nhằm một mục đích duy nhất là đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Người nói: “chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi” (9).
Nhà nước và các cấp chính quyền phải vừa dùng giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo và giúp “những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, cờ bạc, buôn lậu... trở nên những người lao động lương thiện”; miễn thuế nông nghiệp một năm cho nông dân để đồng bào thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất… Những điều Người dặn, những quyết sách mà Người cùng Đảng và Chính phủ nỗ lực thực hiện đã góp phần chăm lo đời sống nhân dân, thể hiện chiều sâu tư tưởng nhân văn của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền với lợi ích chính đáng của Nhân dân.
Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên.
Thông qua các phong trào, cuộc vận động, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội chủ động làm tốt công tác phối hợp, làm tăng sức mạnh từ quần chúng tham gia đóng góp cho quá trình phát triển đất nước, đem lại lợi ích cho đời sống nhân dân. Bên cạnh đó Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội tiếp tục đổi mới, có nhiều giải pháp tích cực hơn nữa trong công tác nắm tình hình nhân dân.
Thứ tư, Cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân, phải đặt quyền lợi của nhân dân lên trên hết.
Trong Thư gửi Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Người nhắc nhở: “Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân” (10).
Cán bộ là nhân tố quyết định thành bại của việc thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do đó, yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ cán bộ trong cơ quan Đảng và bộ máy Nhà nước, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chủ chốt, cán bộ cấp chiến lược phải có bản lĩnh, có tâm huyết, có tư duy, tầm nhìn và khát vọng cống hiến, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn thử thách, đổi mới sáng tạo, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, chuyên gia trong bộ máy Đảng, Nhà nước phải tinh thông nghề nghiệp, có tác phong làm việc khoa học, chuyên nghiệp, luôn có ý thức đảm nhận việc cụ thể hóa, thể chế hóa và thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quyết định của đảng bộ các cấp. Thực tế cho thấy, việc cụ thể hóa, vận dụng sáng tạo, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống có nhanh, kịp thời, phù hợp và hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào chất lượng và sự phối hợp công tác của đội ngũ cán bộ này.
- Phải huy động sức mạnh toàn dân trong sự nghiệp xây dựng đất nước với phương châm đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân.
Phát huy tài dân: tức là phát huy nguồn lực trí tuệ, sáng kiến, kinh nghiệm trong nhân dân
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao nguồn lực trí tuệ của nhân dân. Bởi vì mọi giá trị văn hóa - tinh thần trong xã hội đều do quần chúng nhân dân sáng tạo ra; nhân dân là những con người sáng tạo, thông minh nhất. Người cho rằng: “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra” (11).
Phát huy sức dân: tức là phát huy sức lao động của nhân dân
Lao động chính là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của con người, của xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định: “Xã hội có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, là nhờ lao động. Xây nên giàu có, tự do, dân chủ cũng là nhờ lao động. Trí thức mở mang cũng nhờ lao động (lao động trí thức). Vì vậy, lao động là sức chính của sự tiến bộ loài người. Cũng là sức mạnh của sự giải phóng dân tộc” (12). Người cho rằng: Nguồn lực lao động trong nhân dân là vô cùng vô tận, đó là sức mạnh “xung thiên”, cải biến xã hội, do đó Đảng phải biết động viên, phát huy sức mạnh, vận động nhân dân ủng hộ cách mạng:
“Gốc có vững cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” (13).
Phát huy của dân làm lợi cho dân: tức là của cải, tài chính, tiền thuế của nhân dân để phục vụ nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, mọi của cải vật chất trong xã hội đều do nhân dân tạo ra và nhân dân cũng là chủ nhân chân chính hưởng thụ những giá trị ấy: “... Nhân dân lao động là những người chủ tập thể của tất cả những của cải vật chất và văn hoá, đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ” (14). Chính vì vậy, “Làm việc gì cũng phải có quần chúng. Không có quần chúng thì không thể làm được...” (15).
Vì vậy, Đảng cũng như mỗi cán bộ, đảng viên phải biết dựa vào dân, phát huy nguồn lực của cải tài chính trong dân để làm cho dân giàu, nước mạnh
Nguồn lực của cải, tài chính trong nhân dân là rất nhiều, Đảng cũng như mỗi cán bộ, đảng viên phải biết dựa vào dân, phát huy nguồn lực của cải tài chính trong dân để làm cho dân giàu, nước mạnh. Với Người, từ việc to đến việc nhỏ, từ xa đến gần, dựa vào dân, huy động sức dân là chiếc chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn.
Tóm lại, quan tâm lớn nhất và xuyên suốt của Hồ Chí Minh là chăm lo và không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Thi đua ái quốc, đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan lieu, tất cả đều nhằm vào hạnh phúc của nhân dân. Để chăm lo đời sống nhân dân, trước hết phải có đường lối, chính sách đúng; phải lãnh đạo, tổ chức và giáo dục nhân dân. Theo Người, “Dân đủ ăn đủ mặc thì những chính sách của Đảng và Chính phủ đưa ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được” (16).
Chính vì thế, Văn kiện Đại hội XIII, từ thực tiễn 35 năm đổi mới và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, 5 bài học kinh nghiệm quý báu đã được đúc kết, trong đó bài học thứ hai là: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn luôn quán triệt sâu sắc quan điểm dân là gốc; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa” (17).
Kết luận
Đối với Hồ Chí Minh, cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân chính là chân lý, là mục tiêu hướng tới của sự nghiệp cách mạng. Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc đi xa, Người căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” (18); phải có “kế hoạch xây dựng lại thành phố và làng mạc đẹp đẽ, đàng hoàng hơn trước chiến tranh. Khôi phục và mở rộng ngành kinh tế” (19). Đây chính là sự tổng kết về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội đồng thời thể hiện rõ quan điểm Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống nhân dân.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t.4, tr.187.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.4, 175.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.4, 175.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.4, 135.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.13, 30.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.15, 622.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.13, tr.164.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.622.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.9, tr.518.
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.4, tr.64
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.335.
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.15, tr.514.
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.15, tr.502.
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.13, tr.66.
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.15, tr.279.
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.9, tr.518.
(17) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2021, t.I, tr.27-28.
(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.15, tr.612.
(19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.15, tr.617.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2021, t.I, tr.27-28.
Th.S Nguyễn Thị Lê Vân - Trường Chính trị Bình Dương (MT)