Công tác tư tưởng trước yêu cầu ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong tình hình mới
(TG) - Nhân kỷ niệm 90 năm Ngày truyền thống ngành Tuyên giáo (1/8/1930 - 1/8/2020), đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương đã có bài viết Công tác tư tưởng trước yêu cầu ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong tình hình mới. Tạp chí Tuyên giáo trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết.
1. VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với xã hội. Nhờ có đạo đức mà con người không làm những điều trái với những giá trị phổ quát của xã hội được đúc kết thành chuẩn mực; giúp cho xã hội được duy trì ổn định và phát triển có trật tự, các quan hệ xã hội được điều tiết hài hòa. Biểu hiện sống động nhất của đạo đức chính là thực hành các chuẩn mực đạo đức bằng sự thôi thúc của lương tâm, ý thức tự giác, bổn phận thiêng liêng, nhờ đó giải phóng cao nhất mọi năng lực nội sinh để phục vụ cho lý tưởng cách mạng, phụng sự quốc gia - dân tộc, xả thân cho giá trị đúng đắn, kể cả hy sinh tính mạng. Đạo đức cũng chính là bệ đỡ, dẫn dắt tài năng phát triển đúng hướng, phục vụ cho các mục đích cao đẹp nhằm phát triển con người và xã hội. Yếu tố thể hiện rõ nét phẩm chất đạo đức của con người là lối sống, là quá trình hình thành và biểu hiện ra bên ngoài những giá trị đạo đức của mỗi cá nhân con người(1). Lối sống của con người cũng là quá trình hiện thực hóa các giá trị văn hóa thông qua hoạt động sống.
Người Việt Nam rất coi trọng đạo đức, lối sống. Đạo đức được coi là một trong ba chân giá trị chân - thiện - mỹ mà con người luôn hướng tới. Tiến trình lịch sử - văn hóa của dân tộc từ thời đại Hùng Vương đến thời đại Hồ Chí Minh đã chứng kiến biết bao các thế hệ nối tiếp nhau cùng chung lưng, đấu cật trong phòng chống thiên tai và chống giặc ngoại xâm để dựng nước và giữ nước. Quá trình đó đã hun đúc ở con người Việt Nam truyền thống đạo đức tốt đẹp như: lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã -Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; cần cù, sáng tạo trong lao động, tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống(2).
Kế thừa tinh hoa đạo đức của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng tạo nền đạo đức mới phù hợp với hiện thực, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam và sự tiến bộ của nhân loại - đạo đức cách mạng, đạo đức vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người(3). Đạo đức cách mạng định hướng cho con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình để vượt lên mọi cám dỗ, chiến thắng chủ nghĩa cá nhân, biết đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình, cao nhất của nó là chí công vô tư(4). Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở, yêu cầu Đảng ta phải xứng đáng “là đạo đức, là văn minh”, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(5). Người đã để lại một hệ thống quan điểm về đạo đức và bản thân Người là một tấm gương mẫu mực, sáng ngời về thực hành đạo đức cách mạng. Những tiêu chuẩn đạo đức mà Người chỉ ra đã trở thành chuẩn mực đạo đức trong xã hội Việt Nam đương đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng đối với cán bộ, đảng viên, đạo đức cách mạng là cái gốc; nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng trở lên vô dụng(6). Người nói: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Giải phóng dân tộc, giải phóng loài người là việc lớn mà mình không có đạo đức, không có căn bản thì không làm nổi việc gì”(7). Người khẳng định: “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không”(8). Thiếu đạo đức là căn nguyên của các hiện tượng tiêu cực trong Đảng và trong xã hội. Người chỉ rõ: “Vì thiếu đạo đức cách mạnh, thiếu tinh thần trách nhiệm mà đâm ra hư hỏng như ăn cắp của công, vung phí tiền bạc và vật liệu của Nhà nước và của tập thể, làm hại đến việc phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống của nhân dân”(9). Người cảnh báo: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức”(10); “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân"(11).
Để việc vận dụng đạo đức cách mạng vào cuộc sống, phù hợp từng hoàn cảnh cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những yêu cầu cụ thể cho từng đối tượng. Cán bộ, đảng viên có những tiêu chuẩn khác nhau, sống và làm việc trong những môi trường khác nhau, nhưng đều có yêu cầu chung là phải xứng đáng là công bộc của nhân dân - những người vừa phục vụ nhân dân, vừa lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để xây dựng đất nước “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân, nhưng cán bộ, đảng viên phải là những tấm gương để dân tin, dân mến, dân làm theo.
Có thể khẳng định, đạo đức là cái gốc của con người ở mọi thời đại, dù các chuẩn mực đạo đức luôn mang tính lịch sử - cụ thể. Trong quá trình thực hiện sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, Đảng đặc biệt coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến” trong nội bộ, coi đây là công tác then chốt, có tính quyết định đến sự tồn vong của Đảng và chế độ. Đây vừa là vấn đề cơ bản, lâu dài, vừa là yêu cầu cấp bách trên mặt trận tư tưởng - văn hóa của Đảng hiện nay.
2. THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY
Hiện nay, đại bộ phận cán bộ, đảng viên kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, phát huy chủ nghĩa yêu nước, nêu cao trách nhiệm trước Đảng, vận động, giáo dục và tổ chức quần chúng thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phần lớn cán bộ lãnh đạo, quản lý đã nhận thức rõ hơn về nghĩa vụ, trách nhiệm, có ý thức tu dưỡng, rèn luyện về tư cách, đạo đức và giữ gìn đoàn kết nội bộ; nâng cao năng lực chuyên môn và năng lực lãnh đạo, nhất là năng lực tổ chức thực hiện, tiếp cận và giải quyết tốt hơn những nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế. Nhiều cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành thể hiện rõ nhiệt huyết, trách nhiệm, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, có phong cách làm việc dân chủ, có quyết tâm, bản lĩnh chính trị trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Họ luôn nêu cao đạo đức cách mạng, trung thực, giản dị, gần gũi nhân dân, được nhân dân tin tưởng; là lực lượng nòng cốt, có sức lôi cuốn quần chúng nhân dân trong các phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đạt nhiều thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước. Nhiều người trong số đó trở thành những gương điển hình tiểu biểu trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Nhìn tổng thể, trên mọi mặt đời sống xã hội, công cuộc xây dựng con người mới, xã hội mới đã đạt được những kết quả quan trọng. Sự năng động, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân được phát huy, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được mở rộng, công tác an sinh xã hội có chuyển biến rõ nét, đem lại những quyền và lợi ích thiết thực đối với nhân dân. Đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt. Đông đảo quần chúng nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, phấn khởi trước những thành tựu của đất nước. Tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, ý thức về giá trị truyền thống lịch sử dân tộc, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc được mọi tầng lớp nhân dân coi trọng. Ngày càng có nhiều người dân quan tâm tìm hiểu chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Các phong trào hướng về cội nguồn, thiện nguyện, xây dựng quê hương giàu mạnh, gia đình hoà thuận, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” được mọi tầng lớp nhân dân đón nhận và hưởng ứng. Từ khi Đảng ra đời đến nay, đạo đức cách mạng khi được giáo dục sâu rộng, có ý nghĩa định hướng hành vi của con người, đã đem lại những thay đổi mang tính cách mạng trong lao động, sản xuất và chiến đấu, trong công tác và sinh hoạt đời thường của mỗi cán bộ, đảng viên, góp phần trực tiếp bảo đảm thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của thời kỳ đổi mới.
Tuy nhiên, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp cách mạng của Đảng. “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp nghiêm trọng. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm”(12).
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã chỉ rõ những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên(13). Tình trạng suy thoái này đã gây ra hậu quả xấu trên nhiều mặt: thất thoát tài sản, tiền vốn của Nhà nước và nhân dân; làm tha hóa cán bộ, đảng viên; ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước; làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ; làm suy yếu nội bộ Đảng và bộ máy Nhà nước, trở thành nguy cơ đe dọa đến sự ổn định về chính trị và sự tồn vong của Đảng và chế độ. Suy thoái về đạo đức, lối sống không chỉ tác động đến sự ổn định, phát triển của mỗi cá nhân, gia đình và xã hội, mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh con người, đất nước Việt Nam trên trường quốc tế. Vấn đề này là một trong những nhân tố kìm hãm sự phát triển của xã hội và công cuộc đổi mới đất nước. Nguyên nhân sâu xa, căn bản của hiện trạng này chính là do sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, sa vào chủ nghĩa cá nhân, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất, tiền tài, danh vọng. Phần khác là sự nể nang, né tránh, thờ ơ, vô cảm, ngại va chạm, ngại đấu tranh phê bình, ngăn chặn các biểu hiện suy thoái trong nhiều tổ chức đảng, nhất là tình trạng thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là cần phải có biện pháp quyết liệt, mạnh mẽ hơn nữa trong phòng, chống và ngăn chặn một cách thực sự hiệu quả những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Đây là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, tiên phong là mặt trận công tác tư tưởng.
3. TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, ĐẤU TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN, BỆNH CƠ HỘI THỰC DỤNG, ĐẨY LÙI SUY THOÁI VỀ ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG
Tăng cường công tác tư tưởng là một biện pháp quan trọng để giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tầm quan trọng đặc biệt của công tác tư tưởng đối với sự thống nhất về tư tưởng - một trong những cội nguồn sức mạnh đem lại thắng lợi cách mạng. Lênin từng căn dặn: chúng ta không được quên rằng thống nhất về tư tưởng là cơ sở của mọi sự thống nhất(14); thống nhất về tư tưởng là truyền bá những tư tưởng nhất định - những tư tưởng của giai cấp tiên phong; là phân định ranh giới về tư tưởng(15). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhiều lần khẳng định: “Giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư tưởng là việc quan trọng nhất của Đảng, phải kiên quyết chống cái thói xem nhẹ tư tưởng”(16).
Qua các kỳ đại hội, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng(17) nhằm xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng con người mới, xã hội mới, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa “hồng” vừa “chuyên”. Việc đẩy mạnh thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng trong toàn hệ thống chính trị đã tạo nhiều chuyển biến quan trọng trong nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đặc biệt là quá trình liên tục thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với Nghị quyết 04 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã thể hiện quyết tâm ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đã mang lại những kết quả bước đầu tích cực.
Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền, chịu trách nhiệm toàn bộ những vấn đề trọng đại của đất nước. Vì vậy, để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối sống phải tăng cường hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Trước hết phải bắt đầu từ vấn đề nâng cao nhận thức.
Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, vị trí, vai trò của công tác tư tưởng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng, toàn dân, mà sinh thời, được Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa lên vị trí hàng đầu: “công tác lãnh đạo tư tưởng là quan trọng nhất”(18). Muốn chỉnh đốn về tổ chức, trước hết phải chỉnh đốn về tư tưởng vì có đảng viên, người thì đã vào Đảng rồi nhưng tư tưởng thì chưa vào Đảng. Trong đầu óc của họ vẫn còn chứa những thứ xấu xa của giai cấp bóc lột; họ chưa thật hiểu tư tưởng vô sản là gì, Đảng là gì”(19).
Kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống” là vấn đề có tính nguyên tắc trong ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối sống và những biểu hiện tiêu cực khác. Vì vậy, phải xây dựng được mẫu hình về đạo đức, lối sống làm hệ quy chiếu định hướng cho con người điều chỉnh mình, trong đó tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chính là hình mẫu tiêu biểu của hệ quy chiếu đó. Khi nghiên cứu về Hồ Chí Minh, các nhà khoa học trong và ngoài nước cho dù tiếp cận Người ở nhiều góc độ khác nhau: Một chiến sỹ cách mạng lỗi lạc, một lãnh tụ vĩ đại, một nhà văn hóa kiệt xuất, một anh hùng giải phóng dân tộc... nhưng cũng đều thừa nhận rằng, tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người là giá trị nổi bật, sáng chói nhất trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Người.
Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống vừa là vấn đề cơ bản, phải tiến hành thường xuyên, lâu dài; vừa là vấn đề cấp bách, phải tiến hành bằng những giải pháp quyết liệt, hiệu quả, không chủ quan với những kết quả bước đầu. Khi sự suy thoái đạo đức, lối sống đã trở nên “nghiêm trọng và kéo dài”, khi nó đã len vào cả cán bộ cấp chiến lược làm xói mòn niềm tin của nhân dân thì ngăn chặn và đẩy lùi nó phải được tiến hành bằng giải pháp đặc biệt.
Nhân dân có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối sống và những biểu hiện tiêu cực khác. Chế độ ta là chế độ dân chủ - chế độ nhân dân làm chủ, nhân dân là chủ - nên huy động, tập hợp nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng có vai trò cực kỳ quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Xây dựng về tư tưởng, về chính trị, về tổ chức đó là đường lối xây dựng Đảng. Đó không những là công việc của Đảng và của các đảng viên mà cũng là của nhân dân ta. Nhân dân giúp xây dựng Đảng bằng cách: hiểu rõ Đảng, ủng hộ Đảng, hưởng ứng những lời kêu gọi của Đảng, ra sức cho Đảng rõ tình hình trong nhân dân”(20). Người khẳng định: Một khi trong Đảng và ngoài Đảng nhận rõ tình hình, hiểu rõ nhiệm vụ thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất. Nếu trong Đảng và ngoài Đảng từ trên xuống dưới, từ trong đến ngoài đều tư tưởng thống nhất và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công việc tuy khó khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi.
Thứ hai, nâng cao bản chất giai cấp công nhân của Đảng, đặt ra chế độ nghiêm khắc đối với việc rèn luyện, tu dưỡng, phẩm chất đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên.
Thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình, trước hết trong sinh hoạt cấp ủy và cơ quan lãnh đạo các cấp. Trong khi tiến hành tự phê bình và phê bình trong Đảng, nhất thiết phải có sự tham gia một cách tích cực và có hiệu quả của các đoàn thể quần chúng. Cần có kế hoạch và cơ chế, thiết chế bảo đảm cho nhân dân phát huy được vai trò và quyền giám sát, quyền đóng góp ý kiến cho tổ chức đảng, đảng viên. Cần thực hiện nghiêm túc các quy định về những điều đảng viên không được làm; Quy định số 101-QĐ/TW về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; Quy định số 55-QĐ/TW về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên; Quy định số 08-QĐi/TW về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Qua đó, một mặt nâng cao uy tín của cán bộ, đảng viên. Mặt khác, đưa công tác tự phê bình và phê bình thực sự đi vào nề nếp, trở thành tập quán đạo đức tốt đẹp trong Đảng và toàn xã hội.
Tăng cường công tác lý luận, giáo dục chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên và quần chúng, như văn kiện Đại hội XII của Đảng yêu cầu: “đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với từng đối tượng theo hướng cụ thể, thiết thực, hiệu quả”(21). Thực hiện có kế hoạch và thường xuyên công tác bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, tư tưởng, lý luận cho cán bộ, đảng viên các cấp, nhất là cấp chiến lược. Chú trọng đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận theo hướng thiết thực, linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng. Thông qua học tập lý luận chính trị, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần tự soi, tự sửa, nhất là trước các hạn chế, khuyết điểm, như: lý luận kém, lý luận suông, xa rời thực tiễn, bản vị, cục bộ.
Thứ ba, tăng cường công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức đa dạng, sinh động, thiết thực, hiệu quả về việc thực hiện sâu rộng trong toàn hệ thống chính trị và xã hội Chỉ thị 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết 04 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Mấu chốt thành công của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chính là thực hiện tốt quy định nêu gương của mỗi cán bộ đảng viên, đặc biệt là các cán bộ cấp cao và gia đình. Do vậy, bằng nhiều hình thức, tạo sự lan tỏa mạnh mẽ các giá trị đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc qua những bài học sinh động của lịch sử và thực tế cuộc sống. Đồng thời, tích cực xây dựng nếp sống văn hóa, chuẩn mực đạo đức xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế và dùng chuẩn mực đó và dư luận xã hội lành mạnh, cùng với luật pháp để ngăn chặn, đẩy lùi các hành vi phản đạo đức, phản văn hóa. Xây dựng chế tài đủ mạnh thúc đẩy, giám sát, kiểm tra việc thực hiện quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên, để việc học tập và tu dưỡng đạo đức, lối sống dần trở thành thói quen ăn sâu trong công tác và đời sống thường nhật của mỗi người. Từ đó, hình thành ở mỗi con người, trước hết từ cán bộ, đảng viên thói quen thực hành đạo đức, thống nhất giữa lời nói và việc làm, thực hành cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, xây dựng quan hệ tình nghĩa giữa con người với con người...
Thứ tư, đấu tranh kiên quyết với các tư tưởng phản văn hóa, phản đạo đức được du nhập, truyền bá cùng với mặt trái của kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, bên cạnh mặt tạo ra động lực mới cho phát triển, cũng có những mặt trái khiến cho đạo đức, lối sống xã hội đứng trước những thách thức, nhất là chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hưởng lạc, chủ nghĩa xa hoa, tôn sùng đồng tiền, xem nhẹ đạo lý. Các thế lực thù địch ra sức lợi dụng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế để truyền bá, xuất khẩu các tư tưởng cổ xúy cho tự do cá nhân, gây băng hoại đạo đức xã hội, lối sống con người, tác động chuyển hóa vào nội bộ. Vì vậy, “xây” phải gắn liền với “chống”, đấu tranh kiên quyết, ngăn chặn từ gốc, từ xa các yếu tố gây mầm, cổ xúy cho đạo đức tư sản, phản động, đi ngược lại chuẩn mực đạo đức cách mạng. Phải tạo cho mỗi cán bộ, đảng viên và người dân những “bộ lọc” trước thông tin đa dạng của xã hội mở; xử lý nghiêm việc tuyên truyền các ấn phẩm độc hại, phản động, lạc hậu trên mọi phương tiện truyền thông; tích cực tuyên truyền tấm gương “người tốt, việc tốt” theo phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”.
Thứ năm, đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực, uy tín, khắc phục triệt để cơ chế xin - cho, nạn “chạy chức”, “chạy quyền”, kiên quyết loại bỏ ra khỏi Đảng và bộ máy Nhà nước những phần tử suy thoái đạo đức, cơ hội, bất tài, mị dân. Phải nhận thức nghiêm túc vấn đề có tính nguyên tắc: “muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, cán bộ phải có “gan phụ trách, có gan làm việc”. Phát huy dân chủ, tăng cường giám sát, phản biện và góp ý của nhân dân. Nêu cao trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội các cấp trong công tác cán bộ, cũng như trách nhiệm của người đứng ra giới thiệu cán bộ vào những chức vụ nhất định. Đổi mới phương pháp đánh giá cán bộ dựa trên cơ sở tiêu chuẩn, mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân làm thước đo. Xây dựng chính sách đãi ngộ và chính sách tiền lương công bằng, hợp lý, bảo đảm cho cán bộ, công chức đủ sống và sống tốt bằng đồng lương chân chính.
Thứ sáu, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc dân chủ hóa đời sống xã hội theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”(22). Đây là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Cần có cơ chế, luật pháp bảo đảm cho cơ quan dân cử thực sự là đại diện của nhân dân, do nhân dân tự giác lựa chọn dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phát huy quyền dân chủ cũng có nghĩa thực thi quyền giám sát của nhân dân đối với các cơ quan, tổ chức, cán bộ của Đảng và Nhà nước. Dân chủ phải đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật. Loại bỏ những biểu hiện dân chủ hình thức hay mang màu sắc dân túy. Chỉ có dân chủ thực sự mới có khả năng phát huy sức mạnh của quần chúng, đẩy lùi và khắc phục nguy cơ tha hóa đe dọa đời sống đạo đức của xã hội.
Thứ bảy, tập trung đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống luật pháp và xây dựng ý thức tuân thủ pháp luật trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Phải coi pháp luật và đạo đức là hai mặt không thể thiếu trong quản lý xã hội. Khẩn trương xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống luật pháp, khắc phục một số bất cập trong công tác lập pháp, hành pháp và tư pháp, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về pháp luật, nâng cao ý thức tìm hiểu và tuân thủ pháp luật của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Cán bộ có chức vụ càng cao càng cần phải gương mẫu trong chấp hành pháp luật.
Thứ tám, quan tâm phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, công tác tuyên giáo. Ngày 01/8/2018, làm việc với Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tuyên giáo để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới hiện nay; tuyệt đối trung thành, kiên định, vững vàng, biết cách tổ chức công việc, có dũng khí đấu tranh, có đủ trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, phải nói được, làm được, thuyết phục được, không để bị mua chuộc bởi các thế lực xấu, thù địch. Phương pháp phải dân chủ, chân thành, không thể gò ép, áp đặt, mệnh lệnh; phải rất tinh tế, đi vào lòng người”. Đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước cũng yêu cầu không được “khoán trắng” công tác tuyên huấn cho ban tuyên giáo các cấp mà các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp phải có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thành tốt nhiệm vụ quan trọng này.
Việc xây dựng đạo đức cách mạng nói riêng và văn hóa nói chung là một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, được tiến hành từ những vấn đề gốc rễ của tồn tại xã hội và tác động vào hình thái ý thức xã hội. Xã hội càng phát triển, những vấn đề văn hóa, đạo đức, lối sống càng trở thành chủ đề thu hút sự quan tâm của xã hội, đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội như lời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã nhấn mạnh tại Hội nghị cán bộ toàn quốc trực tuyến của Chính phủ ngày 30/12/2019: “Siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong thực thi công vụ; nâng cao đạo đức, văn hoá, tính chuyên nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức. Kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực gắn với đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách để không thể, không dám, không muốn tham nhũng”. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, chúng ta cần gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ: phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Có như vậy mới xây dựng thành công nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
___________________________
(1) Phạm Hồng Tung: Nghiên cứu về lối sống: một số vấn đề về khái niệm và cách tiếp cận, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007).
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1998, tr.56.
(3) (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.5, tr.292, 292-293.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.292; t.11, tr.603; t.13, tr.90; t.6, tr.290.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.XIV-XV.
(6) (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.400, 29.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.354.
(10) (19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.16, 229-230.
(11) (22) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.672, 611.
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2016, tr.61.
(13) Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ”.
(14) V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1975, t.5, tr.336.
(15) V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.530.
(16) (18) (20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.279-280, 554-555, 280-281.
(17) Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16/7/1998, Hội nghị Trung ương 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 02/02/1999 Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay; Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16/1/2012, Hội nghị Trung ương 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Nghị quyết 04-NQ/TW, ngày 30/10/2016, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ; Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22-10-2018 về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.
(21) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr.201.
Võ Văn Thưởng
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng,