(TG)- Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tinh thần làm việc và trách nhiệm của “người đầy tớ”/"công bộc" trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là đi đúng đường lối quần chúng, “từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”, thể hiện ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, hiểu dân, học hỏi kinh nghiệm từ nhân dân để hoàn thành trọng trách được giao phó.
CÁN BỘ LÀ ĐẦY TỚ CỦA DÂN
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”[1] và “các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân”[2]. Vì thế,cán bộ, đảng viên phải là người lãnh đạo, người đày tớ trung thành của nhân dân, người công bộc tận tụy (dốc lòng phục vụ, tận tụy phục vụ: phục vụ Tổ quốc[3]) chứ không phải là “quan cách mạng” và “vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng”[4]… .
Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng: “Dân là chủ thì chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải làm quan cách mạng” và “Làm cán bộ tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ a, b, c này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được”[5], có nghĩa là trong tư tưởng của Người, Đảng nói chung, mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng, bên cạnh địa vị, trí tuệ của một “nhà lãnh đạo” đều phải có tinh thần làm việc của một “người đầy tớ” nhân dân. Đó là một chỉnh thể thống nhất, biện chứng, không thể tách rời trong phương pháp và phong cách làm việc của Đảng; đồng thời, thể hiện rõ nét nhất sự khác biệt về bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo so với Nhà nước thực dân, phong kiến. Điều này cũng không mâu thuẫn với trọng trách kép: “người lãnh đạo” và “người đày tớ” là vì: 1) Để xứng đáng là người lãnh đạo, cán bộ phải thực thi một chủ trương, đường lối hợp lòng dân, vì lợi ích của nhân dân; 2) Muốn đưa chủ trương, đường lối vào cuộc sống, người lãnh đạo phải thật sự gần dân, hiểu dân, ngày đêm trăn trở với lợi ích của dân, phải thật sự vì dân phục vụ. Hai điều này đều thể hiện tâm thế “người lãnh đạo” và “người đầy tớ” của nhân dân.
Vì vào Đảng là để phục vụ Tổ quốc và nhân dân, cho nên theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi người cán bộ, đảng viên xác định rõ vị thế “lãnh đạo là làm đầy tớ nhân dân và phải làm cho tốt”[6] thì tinh thần phục vụ như “công bộc” sẽ chi phối và ảnh hưởng trực tiếp đến việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng nói chung, đạo đức công vụ nói riêng. Điều này được thể hiện rõ trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện (qua suy nghĩ, thái độ và hành động) của mỗi người trên tinh thần: 1) Luôn đặt lợi ích chung của quốc gia, dân tộc, nhân dân lên trên lợi ích cá nhân; sẵn sàng đón nhận mọi khó khăn, vất vả, thậm chí hy sinh cả bản thân vì lợi ích chung. 2) Trong bất cứ thời điểm nào, hoàn cảnh cụ thể nào cũng phải “việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”[7]; không để “dân đói”, “dân rét”, “dân dốt”. 3) Không những phải “yêu dân”, “kính dân” mà còn phải biết ơn nhân dân vì “cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra”[8].
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, muốn “làm người đày tớ nhân dân chứ không phải làm quan nhân dân”[9], người cán bộ, đảng viên phải nắm vững “dân là chủ” và “dân làm chủ” và “phải mở rộng dân chủ thật sự với nhân dân”[10]. Theo Người, “chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ Trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào - đều phải là đày tớ trung thành của nhân dân”[11].. Đồng thời, Người cũng yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên ở bất cứ địa vị nào cũng phải làm gương thực hành dân chủ trong công tác để tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân phát huy sáng kiến, nâng cao hiệu quả công việc. Mỗi người, dù đảm nhận vị trí công tác nào cũng “trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”[12] và “phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu khó đến đâu mặc lòng, những vấn đề quan hệ đến đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới”[13].
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tinh thần làm việc và trách nhiệm của “người đầy tớ” trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là đi đúng đường lối quần chúng, “từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”, thể hiện ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, hiểu dân và học hỏi kinh nghiệm từ nhân dân để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đồng thời, tất cả vì nhân dân phục vụ, với tinh thần hiểu thấu và sẻ chia, chủ động và linh hoạt, phù hợp điều kiện cụ thể; thể hiện ở quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, kiên quyết, kiên trì nói đi đôi với làm, xây đi đôi với chống để “tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người”[14].
CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN PHẢI TU DƯỠNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, “chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc”[15] và “chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm; quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí…Nó trói buộc, nó bị mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”[16]. Những người sa vào chủ nghĩa cá nhân thì “việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”. Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ”[17]. Đó chính là những người thiếu nỗ lực rèn luyện đạo đức cách mạng, không thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Vì thế, để hoàn thành tốt trọng trách “công bộc”/“đầy tớ” của nhân dân, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, người lãnh đạo, quản lý, đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị nói riêng phải luôn học tập và thấm nhuần đường lối, quan điểm của Đảng, không ngừng phấn đấu nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo/quản lý; phải trau dồi đạo đức cách mạng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; phải công tâm, kỷ luật, tự giác, thẳng thắn, triệt để trong thực thi quyền lực, trong tự phê bình và phê bình theo đúng chức năng, nhiệm vụ của mình. Mỗi người, hằng ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa trên tinh thần: đối với mình thì phải “cả quyết sửa lỗi”, đối với người thì “có lòng bày vẽ” và nhất là “phải xem trọng những phê bình và những đề nghị của quần chúng… phải thật thà và công khai tự phê bình, ra sức sửa chữa… cần luôn luôn hoan nghênh quần chúng phê bình”[18], để một mặt phát huy ưu điểm, mặt khác khắc phục những sai lầm, khuyết điểm. Đồng thời, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, phải hết sức chú trọng công tác kiểm tra, giám sát; phải coi kiểm tra và giám sát là điểm xuất phát, là khâu trung tâm của công tác lãnh đạo để làm cho lãnh đạo đạt hiệu quả cao nhất.
Thực tế công tác yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên “phải nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, phải thật thà phê bình và tự phê bình để làm gương mẫu trong việc chấp hành kỷ luật. Phải chí công vô tư, không thiên vị, không thành kiến”[19]. Qua đó, một mặt, kiểm tra tính đúng đắn, phù hợp của chủ trương, đường lối của Đảng so với thực tiễn, phát huy ưu điểm, phát hiện cái mới, cái tốt hơn nhằm điều chỉnh, đề ra phương thức lãnh đạo sát hợp hơn; mặt khác, ngăn ngừa, khắc phục những biểu hiện tha hóa quyền lực của đội ngũ cán bộ như: lạm quyền, lộng quyền, trục lợi từ quyền, cửa quyền, tiếm quyền, lấn át chính quyền, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Và thực tế cũng cho thấy là, ở đâu, địa phương nào mà người cán bộ, đảng viên thương yêu nhân dân, gần gũi và giúp đỡ nhân dân, bảo vệ và sẵn sàng đáp ứng các nguyện vọng chính đáng của nhân dân, lắng nghe và học hỏi kinh nghiệm từ nhân dân, hết lòng vì nhân dân phục vụ thì ở đó họ luôn được sự che chở, đùm bọc, kính trọng, luôn quy tụ và hấp dẫn được quần chúng.
Tuy nhiên, có không ít minh chứng sinh động trong thực tiễn về sự suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Đó là những người không kiên định lập trường, lý tưởng cách mạng, thiếu tu dưỡng đạo đức cách mạng và rèn luyện bnar lĩnh chính trị nên đã không thể vượt qua, không thể thắng được sự cám dỗ của lợi ích vật chất để rồi vi phạm pháp luật, làm mất lòng tin của nhân dân, làm tổn hại uy tín của của Đảng. Đó là những kẻ mang trong mình óc lãnh tụ, bệnh cá nhân chủ nghĩa, tự cho mình là “quan phụ mẫu” của dân khi lợi dụng quyền lực, lạm dụng quyền hạn của mình, “dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình”[20]; ỷ thế vào quyền hạn và trách nhiệm được trao tại các cơ quan công quyền để trục lợi và “sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi”, kéo bè kéo cánh, chăm chú cho lợi ích của nhóm mình, dòng họ, địa phương mình. Đối với những cán bộ thoái hóa, biến chất này, thì trong mọi mặt công tác: “Ai hẩu với mình thì dù nói không đúng cũng nghe, tài không có cũng dùng. Ai không thân với mình thì dù họ có tài cũng tìm cách dìm họ xuống, họ nói phải mấy cũng không nghe”[21]; đồng thời, “1. Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn người ngoài. 2. Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình, mà chán ghét những người chính trực. 3. Ham dùng những người tính tình hợp với mình, mà tránh những người tính tình không hợp với mình[22]…
Trong những năm qua, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật về thực trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên không làm tròn trọng trách người “công bộc”/“đầy tớ” của nhân dân, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã nêu rõ: “Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở…Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”. Đồng thời, Nghị quyết cũng chỉ ra 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống; 9 biểu hiện về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Thời gian qua, ở một số địa phương, hệ thống chính trị mất sức chiến đấu, thậm chí bị vô hiệu hóa. Một trong những lý do của thực trạng này là vì một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; trong đó, có cả lãnh đạo cấp cao, miệng thì nói “dân chủ” nhưng làm việc thì họ theo lối “quan chủ”; miệng thì nói phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân nhưng hành động thì trái với lợi ích của quần chúng. Họ không chỉ mắc các chứng bệnh chủ quan, quan liêu, thiếu trách nhiệm và vô cảm trước những tâm tư, nguyện vọng, bức xúc của nhân dân mà còn say sưa với lợi ích nhóm, kéo bè kéo cánh để mưu cầu “một người làm quan, cả họ được nhờ”. Những vi phạm của họ, sự suy thoái của họ đã để lại hậu quả nghiêm trọng, đúng như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu tại phiên bế mạc Hội nghị lần thứ 11, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII (12/10/2019): “Kể từ đầu nhiệm kỳ khóa XII đến nay, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật hơn 70 cán bộ cao cấp thuộc diện Trung ương quản lý. Trong đó có 1 đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị và 4 đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng khoá XII, 14 đồng chí nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, 1 đồng chí nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, 5 đồng chí Bộ trưởng và nguyên Bộ trưởng, 2 đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ, 5 đồng chí nguyên Bí thư Tỉnh ủy và 17 đồng chí là tướng lĩnh; một số cán bộ đã bị xử lý hình sự. Thật là đau xót, nhưng nói như Tổng bí thư là: “Không thể không làm, không có cách nào khác! Đây là bài học sâu sắc, bài học đắt giá cho tất cả chúng ta”.
|
Với những khoản tiền lót tay cả triệu USD, nhiều bị can trong thương vụ MobiFone mua AVG đã bị Viện Kiểm sát nhân dân tối cao truy tố, trong đó có ông Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn
ĐỂ LÀM TRỌN NHIỆM VỤ NGƯỜI ĐẦY TỚ THẬT TRUNG THÀNH
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa hồng vừa chuyên, vì Đảng vì nhân dân mà gương mẫu đi đầu trong mọi công việc, v.v.. là sự quan tâm chu đáo, nhất quán trong tư tưởng và hành động của Người ở mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm lịch sử. Thời chiến cũng như thời bình, Người luôn quan tâm công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ phát triển toàn diện, nhất là gương mẫu trong rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư để trở thành những người công bộc tận tụy; và chính Người cũng là một mẫu mực của tấm gương người “công bộc”/“đầy tớ” thật trung thành của nhân dân.
Học tập và làm theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh để mỗi cán bộ, đảng viên xứng đáng là người “công bộc”/“đầy tớ” tận tụycủa nhân dân, cấp ủy và đội ngũ cán bộ, đảng viên cần tập trung thực hiện những giải pháp trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII ngày 15/5/2016 về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII ngày 30/10/2016 về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, với Quy định 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 về “Quy định xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm” và các quy định về nêu gương. Đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân thành nền nếp, tự giác, nhu cầu tự thân của mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên. Đồng thời, nhận diện, chỉ ra những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của những kẻ vi phạm kỷ luật Đảng để không chỉ đấu tranh quyết liệt, có hiệu quả với các việc làm sai trái mà còn kịp thời và kiên quyết đưa ra khỏi Đảng, xử lý đúng quy định những cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, bất kể là ai, ở vị trí công tác nào, đương chức hay đã nghỉ hưu.
Hai là, đẩy mạnh thực hiện tự phê bình và phê bình gắn với tăng cường giám sát và kiểm tra trong mọi mặt công tác, bảo đảm thực chất, dân chủ, khách quan, trung thực, đầy đủ, có chất lượng theo nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa “xây và chống, lấy xây là chính”. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong công tác lãnh đạo, quản lý và kiểm tra, kiểm soát đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu theo định kỳ và đột xuất gắn với giám sát mở rộng và kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong nhiệm kỳ và hằng năm. Thực hiện nghiêm Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và Chỉ thị 05 theo phương châm “trên trước, dưới sau”, “từ trong ra, từ ngoài vào”, “từ trên xuống, từ dưới lên”, nhằm tăng cường đoàn kết nội bộ; đồng thời, gắn khen thưởng kịp thời với kỷ luật nghiêm minh, góp phần củng cố và tăng cường khối đoàn kết thống nhất trong mỗi tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị.
Ba là, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị trong việc tăng cường cơ chế tự kiểm soát quyền lực của cán bộ, đảng viên; trong đó, cán bộ, đảng viên có chức vụ càng cao càng phải xây dựng và thực hiện việc rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư theo chương trình của cấp ủy và kế hoạch đăng ký của cá nhân theo nội dung Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII nghiêm túc, thực chất. Nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, phòng và chống chủ nghĩa cá nhân thông qua sinh hoạt Đảng, tự phê bình và phê bình, qua hoạt động kiểm tra, giám sát, chất vấn, giải trình, đảm bảo khách quan, minh bạch, dân chủ. Kiên quyết không để lọt vào danh sách cán bộ quy hoạch các cấp, nhất là cấp chiến lược và các cấp uỷ nói chung, của Đại hội Đảng lần thứ XIII nói riêng những cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, cơ hội, vi phạm kỷ luật Đảng, Điều lệ Đảng.
Bốn là, dựa vào nhân dân, nâng cao vai trò sự giám sát của nhân dân và đảng viên ở nơi công tác và địa bàn cư trú để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý những hành vi lạm dụng, trục lợi từ quyền lực, cậy quyền, ỷ thế, "lên mặt làm quan cách mạng" của những cán bộ, đảng viên được trao quyền. Các trường hợp vi phạm kỷ luật phải được xử lý nghiêm minh, làm nghiêm từ trên xuống dưới để giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng, để giữ vững và củng cố niềm tin yêu, quý trọng của nhân dân. Trên tinh thần thống nhất giữa nói và làm, nêu gương làm trước, đi đầu trong mọi hoàn cảnh, tinh thần phục vụ tận tụy và thực hiện trách nhiệm “công bộc”/“đầy tớ” nhân dân của cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu các cơ quan, địa phương, đơn vị nói riêng phải được thấu triệt trong suy nghĩ và hành động cụ thể.
Năm là, phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông trong việc phát hiện những biểu hiện thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo cấp cao trục lợi, tham ô, tham nhũng, gây hậu quả nghiêm trọng. Đồng thời, nhân rộng những tấm gương người tốt, việc tốt trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân để lấy cái đẹp dẹp cái xấu, lấy cái tích cực đẩy lùi cái tiêu cực cũng, góp phần lan tỏa những “bông hoa đẹp” trong đời sống xã hội. Đi liền cùng đó, cần kịp thời thông tin về những biểu hiện tha hóa quyền lực, những vụ án tham ô, tham nhũng,v.v.. của cán bộ, đảng viên đã và đang bị xử lý theo pháp luật để không chỉ có tác dụng răn đe, cảnh tỉnh, ngăn ngừa mà còn góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trước trọng trách, quyền lực được trao trong thực thi nhiệm vụ./.
TS. Trần Thị Kim Ninh
Học viện Chính trị Khu vực II
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.289
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.64-65
[3] Nguyễn Như Ý: Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2008, tr. 1275
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.209-291
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.670
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.292
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.65
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.9, tr.145
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.292
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.294
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.13, tr.83-84
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.52.
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.51-52.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.85
[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.602
[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.611
[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.546-547
[18] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.10, tr.414
[19]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.14, tr.363-364
[20] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.295
[21] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.88
[22] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.296
Nguồn: Tạp chí Ban Tuyên giáo Trung ương (MH)