(TG) - Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm. Ngay từ khi chưa giành chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức được sự cần thiết phải gắn kết phát triển văn hóa với xây dựng, phát triển kinh tế xã hội; phải xây dựng văn hóa trong Đảng, trong hệ thống chính trị, trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo đức lối sống và đời sống văn hóa trong các tổ chức Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân, trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.
Trong Đề cương về Văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng ta đã khẳng định: “Quan hệ giữa vǎn hóa và kinh tế, chính trị...vǎn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, vǎn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động”[1]. Trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”[2].
Kế thừa những quan điểm đó, từ khi thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, tư duy lý luận của Đảng về xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã đánh dấu sự đổi mới toàn diện tư duy lý luận của Đảng, trong đó có vấn đề phát triển văn hóa, xây dựng con người. Vấn đề văn hóa biểu hiện cụ thể, gồm: sự nghiệp giáo dục, hoạt động văn hóa, văn nghệ. Mặc dù chưa thể hiện rõ quan điểm xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế, nhưng Đại hội đã đặt vấn đề hiệu quả của hoạt động văn hóa trong mọi hoạt động xã hội, trong đó có chính trị và kinh tế. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội chỉ rõ: “Mỗi hoạt động văn hoá, văn nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân”[3].
Tư tưởng đổi mới tư duy lý luận về phát triển văn hóa của Đảng đề ra đúng vào lúc UNESCO phát động Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa (1988 - 1997) với định hướng lớn là văn hóa vì sự phát triển, giữ gìn bản sắc văn hóa và đa dạng văn hóa. Sự thay đổi cách nhìn về vai trò của văn hóa là cực kỳ quan trọng, thể hiện tầm nhìn, tầm tư duy bắt nhịp với xu thế thời đại. Tại Hội Trung ương 4 khóa VII (năm 1993), Đảng đã nhìn nhận vai trò quan trọng của văn hóa, coi “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”[4].
Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) đã đánh dấu một bước ngoặt đưa nước ta sang giai đoạn phát triển mới. Đại hội đã quyết định đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vấn đề văn hóa gắn với phát triển được nhận thức ở những chiều cạnh mới. Văn hóa không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu của phát triển. Đó là hai mặt thống nhất trong mục tiêu phát triển văn hóa. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Tư duy mới về phát triển văn hóa đã góp phần phát huy giá trị nền tảng, cốt lõi của dân tộc, đồng thời ngăn cản, hạn chế những tác động tiêu cực khi mở cửa, hội nhập quốc tế. Đại hội VIII của Đảng khẳng định: “Văn hóa... vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hóa,văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống,...”[5].
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII ra đời trong bối cảnh Đảng ta chủ động đổi mới tư duy, lãnh đạo toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có văn hóa. Nghị quyết này thể hiện bước chuyển quan trọng về tư duy lý luận, năng lực đúc kết thực tiễn những năm đầu đổi mới; chứa đựng nhiều giá trị tư tưởng, nhân văn và khoa học. Các quan điểm chỉ đạo nêu trong Nghị quyết thực sự đổi mới, có giá trị về cả lý luận và thực tiễn. Trong đó, quan điểm văn hóa là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội thể hiện sự đổi mới mạnh mẽ, khẳng định mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế. Nghị quyết khẳng định: “Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương…”[6]. Có thể khẳng định rằng, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển, hoàn thiện lý luận về văn hóa của Đảng, định hướng phát triển văn hóa trong trong điều kiện đất nước hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
|
Với tinh thần đổi mới tư duy lý luận, Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,..”[7] và “…văn hóa… vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội”[8]. Hội nghị Trung ương 10 khóa IX (năm 2004) đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống lành mạnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam. Nghị quyết đã chỉ ra điều kiện tiên quyết bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước là dựa trên cơ sở phát triển đồng bộ cả ba lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Kết luận của Hội nghị chỉ rõ: “Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước”[9].
Trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) tiếp tục nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế với văn hóa. Nghị quyết Đại hội chỉ rõ: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam…, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế”[10]. Với tinh thần đó, để chính trị và kinh tế gắn kết chặt chẽ hơn với văn hóa, Nghị quyết đã đặt ra yêu cầu: “Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân… Đặc biệt coi trọng nâng cao văn hóa lãnh đạo và quản lý, văn hóa trong kinh doanh...”[11].
Như vậy, tiến trình phát triển lý luận của Đảng về văn hóa nói chung và văn hóa trong chính trị và kinh tế nói riêng ngày càng hoàn thiện. Trước đây, Đảng đặt vấn đề gắn kết phát triển văn hóa với kinh tế - xã hội, hiện nay Đảng ta khẳng định, văn hóa không chỉ là mục tiêu, động lực mà nằm ngay trong quá trình phát triển kinh tế. Sự tăng trưởng kinh tế phải tạo ra bước phát triển mới về văn hóa; văn hóa phát triển thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Với tinh thần đó, tại Đại hội XI của Đảng đã đề cập đến vấn đề văn hóa và phát triển với những nhận thức sâu sắc hơn, ngày càng đề cao vị trí, vai trò của văn hóa, tiếp cận với bản chất đích thực, vốn có của văn hóa là từ con người, vì con người. Đại hội cũng đã đánh giá thực trạng quan hệ giữa văn hóa và tăng trưởng kinh tế trên hai phương diện: mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế và văn hóa trong kinh tế. Về mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế, Đảng ta đánh giá “Văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế”[12]. Về văn hóa trong kinh tế, yếu tố văn hóa còn mờ nhạt, vắng bóng trong tăng trưởng kinh tế. Biểu hiện rõ nét nhất là mô hình tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm qua chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, vốn đầu tư của nước ngoài và nguồn nhân công chất lượng thấp. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng không chỉ nhấn mạnh “tính văn hóa” trong mọi hoạt động của đời sống xã hội mà đã đặt vấn đề đưa văn hóa đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả trong mọi hoạt động cả chính trị và kinh tế: “Đưa phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp,…”[13]..
Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI có sự phát triển mạnh mẽ lý luận về văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nhiều phương diện, trong đó có quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế. Nghị quyết đề xuất sáu nhiệm vụ nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhân cách, lối sống tốt đẹp của con người Việt Nam. Với cách tiếp cận đặt văn hóa trong mối quan hệ với chính trị và kinh tế, Nghị quyết đề ra hai nhiệm vụ mới mà các văn kiện, nghị quyết trước đây chưa đề cập hoặc đề cập nhưng chưa thành nhiệm vụ, là “Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế” và “Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa”[14].
Có thể khẳng định rằng, vấn đề xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế đã được Đảng ta đề cập từ lâu, nhưng từ Nghị quyết Trung ương 5 khóa X, lần đầu tiên lý luận về văn hóa của Đảng đề cập đến vấn đề xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế một cách rõ nét nhất và được tách thành một nhiệm vụ cụ thể. Đảng ta cũng chỉ rõ về những dấu hiệu nội hàm cần phải đạt được trong việc xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. Hội nghị Trung ương 9 khóa XI chỉ rõ: “Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh… Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế... Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc”[15]. Điều đó có nghĩa là, cần phải làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống, trong phát triển kinh tế - xã hội, trong tổ chức và hoạt động chính trị và trong sản xuất, kinh doanh của các cá nhân và tổ chức.
Theo đó, xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế, trước hết phải chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể chính trị, coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trong đó, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, có ý thức thượng tôn pháp luật, dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, tự do cá nhân gắn với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân. Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể. Đồng thời, tạo lập môi trường văn hóa pháp lý, thị trường sản phẩm văn hóa minh bạch, tiến bộ, hiện đại để các doanh nghiệp tham gia xây dựng, phát triển văn hóa. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy ý thức và tinh thần dân tộc, động viên toàn dân, trước hết là các doanh nghiệp, doanh nhân xây dựng và phát triển các thương hiệu Việt Nam có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, cùng với sự đổi mới trong tư duy kinh tế và chính trị, Đảng ta cũng đã có những đổi mới quan trọng trong tư duy lý luận về vai trò của văn hóa trong chính trị và kinh tế. Đây là sự nhận thức sâu sắc của Đảng về mối quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là trong chính trị và kinh tế. Từ chỗ nhấn mạnh xây dựng văn hóa trong cộng đồng, Đảng ta nhấn mạnh đến phát huy vai trò của văn hóa với nhiệm vụ phát triển kinh tế và công tác xây dựng Đảng, đặc biệt chú trọng nâng cao văn hóa lãnh đạo và quản lý, văn hóa trong kinh doanh và văn hóa trong ứng xử của thanh niên, thiếu niên, chống những hiện tượng phản văn hóa, phi văn hóa. Đây là những thành tựu lý luận có ý nghĩa to lớn trong chỉ đạo thực tiễn của Đảng ta thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước./.
PGS.TS. Phan Trọng Hào
Hội đồng Lý luận Trung ương
__________________________________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.7, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2010, tr, tr. 316
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 246.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H, 1986, tr. 91.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.52, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2010, tr. 513.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1996, tr. 110 - 111.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1998, tr. 55.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr. 88.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr. 144.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VII,IX) Về văn hóa, xã hội, khoa học - kỹ thuật, giáo dục, đào tạo, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2005, tr. 283.
(10)Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2006, tr. 106.
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, tr. 213.
(12), (13) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 169, 223.
(14) (15) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2014, tr. 53, 53.
Nguồn: Tạp chí Ban Tuyên giáo Trung ương (MH)