Nguyễn Ái Quốc và Luận cương của Lênin là nhịp cầu đưa Việt Nam theo dòng thời đại
Cách đây 99 năm, Nguyễn Ái Quốc tiếp cận và phát hiện chân lý thời đại trong bản Luận cương của Lênin. Đó là dấu mốc vàng mở ra tiền đồ mới cho dân tộc Việt Nam. Đã có nhiều công trình nghiên cứu và khẳng định ý nghĩa vĩ đại của sự kiện nêu trên. Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cùng suy ngẫm thêm một số điểm để thấy tầm vóc lịch sử của con người đã đưa ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin vào cách mạng Việt Nam.
1. VỚI VIỆC TÌM RA CHÂN LÝ THỜI ĐẠI, NGUYỄN ÁI QUỐC LÀ CON NGƯỜI ĐƯỢC LỊCH SỬ LỰA CHỌN ĐỂ TRỞ THÀNH ANH HÙNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC Ở THẾ KỶ XX
Nguyễn Ái Quốc đã được những người bạn Pháp trao cho tờ báo Nhân đạo (L’Humanité) - Cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội Pháp, số ra ngày 16 và 17-7-1920 đăng Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin (thường được gọi tắt là Luận cương của Lênin). Tưởng chừng là một sự ngẫu nhiên, nhưng đó thực sự là lẽ tất yếu lịch sử.
Tính tất yếu được nhen nhóm bởi chủ nghĩa yêu nước chân chính, truyền thống gia đình, truyền thống quê hương và truyền thống dân tộc là những dòng hợp lưu bồi đắp nên lý tưởng cách mạng trong con người Nguyễn Tất Thành - Văn Ba - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Chân lý thời đại chỉ có thể đến với những ai có sự lựa chọn đúng lẽ sống vì nước, vì dân; dám đối mặt và vượt lên phong ba bão táp thời đại; nhạy bén với diễn biến lịch sử, lăn xả cải biến lịch sử.
Tuyên ngôn Đảng Cộng sản của Các Mác đã mở ra hướng đi mới cho cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Luận cương của Lênin cụ thể hóa con đường giải phóng dân tộc cho các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc là nhịp cầu lịch sử đón nhận, tiếp biến ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam để góp phần phác họa lịch sử thế giới ở thế kỷ XX: Lịch sử của phong trào giải phóng dân tộc thoát khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân, đế quốc trên phạm vi toàn thế giới, mà Việt Nam là một trong những điểm sáng nhất sau ngọn đuốc Cách mạng Tháng Mười Nga.
2. NGUYỄN ÁI QUỐC ĐÃ ĐỊNH VỊ ĐÚNG NHỮNG GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG VĨ ĐẠI CỦA CHỦ NGHĨA MÁC -LÊNIN, ĐÃ ĐƯỢC LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT NAM KIỂM CHỨNG
Ngay khi tiếp cận Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định đó là học thuyết chân chính nhất, cách mạng nhất, phù hợp nhất với bối cảnh lịch sử của Việt Nam. Như vậy, cách mạng Việt Nam ngay từ đầu đã tiếp cận trực tiếp chủ nghĩa Mác - Lênin, tránh được sự hỗn dung và xung đột gay gắt giữa các luồng tư tưởng trái chiều.
Trong “Đường kách mệnh” (xuất bản năm 1927) cũng như các văn kiện do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo và thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng năm 1930, những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được định vị một cách chắc chắn, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam, làm kim chỉ nam cho sự hoạch định cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn suốt 89 năm qua. Những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin được Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ là:
- Cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng vô sản, trước hết làm cách mạng dân tộc, dân chủ rồi tiến tới cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ thực dân Pháp, phong kiến tay sai; mang lại quyền làm chủ nhà máy, xí nghiệp cho giai cấp công nhân, thực hiện người cày có ruộng. Đây là tư tưởng cách mạng triệt để, có lộ trình phù hợp; được Nguyễn Ái Quốc tổng kết thực tiễn các cuộc cách mạng dân chủ tư sản của Anh, Mỹ, Pháp và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cách mạng nước ta.
- Nhân tố tiên quyết bảo đảm cách mạng Việt Nam thắng lợi là phải có chính đảng vô sản lãnh đạo; Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng; Đảng phải được thử thách trong thực tiễn đấu tranh cách mạng để không ngừng lớn mạnh; Đảng phải lấy lợi ích của giai cấp, dân tộc làm tôn chỉ, mục đích. Nguyễn Ái Quốc đã xác định được sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, nên ngay khi Đảng ra đời đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp xã hội.
- Đảng phải giác ngộ, vận động quần chúng đi theo cách mạng. Trong nước thì kết nối các giai tầng, nòng cốt là liên minh công - nông, từ hạt nhân này mà xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đánh đổ thực dân, phong kiến. Ngoài nước thì đoàn kết với các dân tộc có cùng hoàn cảnh bị áp bức, đồng thời tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các lực lượng hòa bình trên thế giới. Phương pháp đấu tranh được kết hợp giữa bạo lực cách mạng với đấu tranh chính trị.
Trải qua 89 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, có lúc vận mệnh của Đảng, của dân tộc rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, nhưng nhờ kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng đã đưa cách mạng đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác.
3. TƯ TƯỞNG VÀ TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH LÀ HIỆN THÂN NHỮNG GIÁ TRỊ CAO ĐẸP, VĨNH HẰNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC -LÊNIN, MÃI SOI SÁNG CON ĐƯỜNG ĐI TỚI THẮNG LỢI CỦA LỊCH SỬ VIỆT NAM
Xuất phát điểm ra đi tìm đường cứu nước, cũng như trong quá trình hoạt động sôi nổi trong phong trào cộng sản quốc tế, kể cả khi đã trở thành lãnh tụ tối cao của dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh chưa bao giờ có ý định trở thành một nhà tư tưởng. Song, chính nhờ có sự tích lũy vốn hiểu biết từ trải nghiệm cuộc sống có ích với nước, với dân, Người đã trở thành một ngọn hải đăng về tư tưởng giữa dông tố thời đại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tiếp thu, chọn lọc những giá trị tư tưởng nhân bản, nhân văn của dân tộc và thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thể hiện lòng yêu nước, thương nòi, đức bao dung, sống hiến dâng cho Tổ quốc và đồng bào. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tầm trí tuệ cao xa; nhận thức đúng trong thực tại, tính toán đúng cho tương lai; đặt lợi ích dân tộc và lợi ích nhân dân lên trên hết, nhưng không bó hẹp trong chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Tư tưởng Hồ Chí Minh được toát lên từ lời nói, cử chỉ, hành động, lối sống, đạo đức cách mạng, luôn thống nhất ở “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là biểu tượng cho giá trị văn hóa; yêu thương, quý trọng con người; thức tỉnh và bồi đắp lương tri. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đưa một dân tộc nô lệ giành được độc lập; định vị trên bản đồ thế giới với một bản sắc chính trị, văn hóa. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã dẫn dắt dân tộc đi từ cuộc trường chinh này đến cuộc trường chinh khác, để chứng minh chân lý bất hủ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại cùng cuộc đời cách mạng đã đưa Nguyễn Ái Quốc đến trực tiếp với chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng mà Hồ Chí Minh để lại cho muôn đời sau là kho báu tư tưởng vô giá của Người.
Đảng ta, nhờ biết kiên định nền tảng tư tưởng nêu trên mà xứng đáng là người đại diện duy nhất cho lợi ích dân tộc; mang lại quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân; đóng góp xứng đáng vào sự tiến bộ chung của nhân loại.
Hiện nay, trên mạng xã hội thường xuyên xuất hiện những luận điệu xuyên tạc, bóp méo lịch sử, núp bóng chiêu bài dân chủ, nhân quyền, sắc tộc, tôn giáo, hòng hạ bệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; như trước đây từng có những trào lưu tư tưởng phi Mácxít, xét lại. Kẻ thù của cách mạng nước ta lúc này, ngoài các thế lực phản động, các phần tử cơ hội chính trị, còn có một bộ phận những người đứng trong hàng ngũ của Đảng, song lại suy thoái tư tưởng chính trị, xuống cấp đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Thực chất, đó là sự rời bỏ lý tưởng cộng sản, từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thiêu rụi thành quả cách mạng mà Đảng lãnh đạo nhân dân ta suốt 89 năm qua. Niềm tin của nhân dân với Đảng vẫn là thành trì bảo đảm sự sống còn của Đảng, nhưng nếu không bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng thì niềm tin cũng sẽ bị xói mòn và sụp đổ.
Trong Di chúc thiêng liêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Thực hiện Di chúc của Người, trong suốt 50 năm qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã luôn giương cao ngọn cờ bách chiến, bách thắng mà Người trao truyền, nhờ vậy mà giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đổi mới đất nước.
Việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII là nhằm làm cho Đảng ta ngày càng trở thành hiện thân của giá trị đạo đức, văn minh. Nghị quyết số 35-NQ/TƯ của Bộ Chính trị ban hành ngày 22-10-2018 về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” cũng chính là sự tiếp tục cụ thể hóa Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tình hình mới, yêu cầu mới của cách mạng Việt Nam. Đưa Nghị quyết này vào cuộc sống là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Vì còn nền tảng tư tưởng của Đảng thì chắc chắn còn Đảng, còn chế độ./.