Vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức được Hồ Chí Minh quan tâm từ sớm và thường xuyên, đặc biệt ở tác phẩm cuối đời nhân dịp kỷ niệm 39 năm Ngày thành lập Đảng (3-2-1969): “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Quán triệt tư tưởng của Người, vấn đề giữ gìn tính kỷ luật của đảng viên hiện nay phải gắn liền với việc rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; cán bộ, đảng viên phải có tinh thần trách nhiệm và hành động tích cực chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu...
1. Đạo đức như nguồn của sông, gốc của cây, cái căn bản của con người
Sinh thời, Hồ Chí Minh quan tâm rất nhiều đến việc giáo dục, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam để Đảng trở thành Đảng “là đạo đức, là văn minh”, trong đó đặc biệt chú trọng việc rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Là người thường xuyên trăn trở vấn đề này, cho đến trong Di chúc, Hồ Chí Minh còn viết: “Trước hết nói về Đảng”(1); “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(2); sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi, “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”(3).
Bài viết Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân được Hồ Chí Minh công bố dịp kỷ niệm 39 năm Ngày thành lập Đảng (3-2-1969) một lần nữa thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Người về vấn đề rèn luyện đạo đức cách mạng cho Đảng. Đây là mối quan tâm nhất quán của Hồ Chí Minh về vấn đề này từ khi Đảng chuẩn bị ra đời (từ tác phẩm Đường Cách mệnh năm 1927) cho đến cả quá trình phát triển của Đảng về sau.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức của người cách mạng như là cái gốc của cây, nguồn của sông, là phẩm chất căn bản của một con người. Trong rất nhiều lần nói và viết về điều này, Hồ Chí Minh cho rằng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”(4).
Rất nhiều người đề cập đến triết lý phát triển. Triết lý phát triển mà Hồ Chí Minh thể hiện qua cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người xuất phát từ cách tiếp cận với đạo đức. Có người bày tỏ quan điểm rằng, tiếp cận sự phát triển phải là từ “pháp trị”, chứ không theo “đức trị”. Nhưng, trong xã hội hiện đại, giữa “pháp trị” và “đức trị” hầu như quyện chặt nhau, và chính Hồ Chí Minh là người đi trước thời đại về vấn đề này. Luật pháp là do con người làm ra, con người tự quy ước với nhau để hành xử trong xã hội. Vì vậy, khi nói tới pháp luật đúng đắn thì đã có yếu tố đạo đức tốt đẹp ở trong đó rồi. Ở đây không có gì là duy lý riêng và duy tình riêng cả.
Từ trong các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh, nhất là từ trong cuộc sống thường nhật của Người đã toát lên điều đó. Trong xã hội hiện đại, luật pháp ngày càng đầy đủ hơn, chặt chẽ hơn, nhưng điều tiết mọi hành vi thì đâu chỉ có luật pháp. Hồ Chí Minh bao giờ cũng chú ý cả “đức trị” và “pháp trị”, xử lý mọi công việc phải vừa có lý, vừa có tình, ngay cả trong Di chúc khi căn dặn hậu thế giải quyết sự bất đồng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, khôi phục tình đoàn kết giữa các đảng cộng sản anh em, Người cũng nhắc tới điều đó. Để thực hiện tốt luật pháp hay để làm tốt bất kỳ việc gì đi chăng nữa thì trước hết vẫn cần cái đức.
Đối với người cách mạng, Hồ Chí Minh quan niệm rằng: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”(5). Có thể nói, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nói, viết và nhất là làm, có liên quan đến vấn đề đạo đức. Đó là nếp sống văn hóa thường nhật của Hồ Chí Minh. Khi cho đạo đức là cái gốc của cây, cái ngọn nguồn của sông, cái căn bản của người cách mạng, Hồ Chí Minh đã trở thành một trong những người đi tiên phong của cuộc cách mạng về đạo đức và chính Người trở thành một chiến sĩ văn hóa trong hiện thực cuộc sống.
2. Kỷ luật nghiêm minh
Đạo đức cách mạng luôn gắn liền với giữ gìn kỷ luật nghiêm minh của Đảng. Với kỷ luật Đảng, thể hiện trong Điều lệ Đảng cũng như các quy định khác của Đảng, thì tất cả mọi đảng viên, bất kể đảng viên đó giữ chức vụ hay không giữ chức vụ hoặc giữ chức vụ cao hay thấp trong bộ máy của hệ thống chính trị, đều phải tuyệt đối chấp hành. Trong tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh đề cập chống chủ nghĩa cá nhân, cho rằng, do cá nhân chủ nghĩa “mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân”(6). Do vậy, Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, phải chú trọng tới vấn đề kỷ luật của Đảng: “Kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh”(7).
Kỷ luật của Đảng còn thể hiện ở việc Đảng vận dụng sáng tạo và phát triển những nguyên lý về xây dựng đảng kiểu mới của V.I.Lênin. Một tổ chức chính trị như Đảng Cộng sản có những nguyên tắc hoạt động của mình. Đảng mà không có kỷ luật thì Đảng không có sức sống, càng không có sức chiến đấu. Vấn đề kỷ luật liên quan đến vấn đề tự do. Có nhiều giá trị của tự do và do đó có rất nhiều cách hiểu khác nhau về tự do. Xã hội đương đại đạt tới nhiều giá trị vật chất và tinh thần to lớn, nhưng vẫn còn đó những giá trị cơ bản mà con người hiểu khác nhau và từ đó hành động khác nhau. Con người là một thực thể của tự nhiên, cho nên con người chịu sự tác động lớn - nhỏ, mạnh - yếu khác nhau. Rồi, đến lượt con người cũng tác động trở lại thế giới tự nhiên. Đó chính là sự tương tác biện chứng. Do vậy, không thể có “tự do tuyệt đối”, theo nghĩa con người muốn hành xử thế nào là tùy, mà con người hành xử theo đúng quy luật của tự nhiên và xã hội. Thế nên, kỷ luật chính là sự tự do. Và, tự do của con người chính là sự nhận thức và hành động theo cái tất yếu. Nếu không hành động theo cái tất yếu thì cũng tức là con người vi phạm quy luật và chắc chắn sẽ bị quy luật trừng phạt.
Chống chủ nghĩa cá nhân để nâng cao đạo đức cách mạng chính là yêu cầu mọi đảng viên phải tuân thủ kỷ luật Đảng để Đảng hành động theo đúng quy luật của tự nhiên và xã hội, để Đảng có sức mạnh nội tại. Rất tiếc, như Hồ Chí Minh đã phê bình nghiêm khắc trong tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, ở nước ta vẫn có không ít đảng viên thiếu tính kỷ luật. Khi đảng viên đã thiếu tính kỷ luật thì chắc chắn không có đạo đức cách mạng.
Nửa thế kỷ đã qua (1969 - 2019), Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải nghiệm cuộc sống phong phú và phức tạp trên con đường phát triển. Vấn đề giữ gìn kỷ luật của Đảng vừa là vấn đề cũ, bởi nó vốn là và vẫn là một nguyên tắc để Đảng căn cứ vào đó để hoạt động và phát triển. Nó cũng vừa là vấn đề luôn luôn mới bởi Đảng phải luôn tương thích với những điều kiện mới với yêu cầu cao hơn về sức mạnh nội tại mà ở đó việc giữ gìn kỷ luật trong Đảng được đặt lên hàng đầu trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Nhìn từ tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân của Hồ Chí Minh, vấn đề kỷ luật Đảng hiện nay trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng cần hiểu và vận dụng như thế nào?
Trước hết, trong vấn đề giữ gìn kỷ luật, Đảng không cho phép đảng viên coi cái tôi cao hơn tất thảy, không cho phép đảng viên hành xử bất chấp cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nghị quyết, Điều lệ Đảng, quyết định, quy định của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước.
Nếu cán bộ, đảng viên mắc phải căn bệnh này thì sẽ trở thành những con người độc đoán, chuyên quyền để mưu cầu lợi ích cá nhân, bất chấp nguyên tắc của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Họ thường tìm kẽ hở trong các quyết định của Đảng, pháp luật của Nhà nước để làm lợi không chính đáng. Trong sinh hoạt và công tác của Đảng và trong các tổ chức của hệ thống chính trị, họ đặt quyền lợi của cá nhân mình, gia đình mình, nhóm mình cao hơn tất cả, hoặc coi lợi ích cá nhân là duy nhất. Thậm chí, họ lợi dụng chức quyền và bộ máy tổ chức để tác động cho ra đời những chính sách, quy định, quy hoạch có lợi cho mình. Đối với tổ chức thì họ giấu giếm khuyết điểm, sai lầm của cá nhân mình; lũng đoạn, kéo bè kéo cánh, gây mất đoàn kết, bao che sai phạm của những người cùng cánh để hưởng lợi. Họ coi tổ chức của hệ thống chính trị chỉ là công cụ để thu vén lợi ích cá nhân. Hành động của những người mắc phải căn bệnh cá nhân chủ nghĩa biểu hiện rất rõ nói không đi đôi với làm: (1) Nói nhiều làm ít; (2) Nói mà không làm; (3) Nói rất hay nhưng làm rất dở; (4) Nói một đằng làm một nẻo. Trăn trở về điều này, từ năm 1969, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân.
Tuân thủ kỷ luật của Đảng là phải đề phòng và chống lại những hành vi phản bội Đảng, phản bội chế độ chính trị. Phản bội Đảng, phản bội chế độ chính trị là sự biểu hiện cao nhất của chủ nghĩa cá nhân, dẫn tới cá nhân đối lập với vận mệnh của Đảng, và như vậy là vi phạm nghiêm trọng kỷ luật Đảng. Những người này bị lợi ích vật chất chi phối, bị đồng tiền tiến công, khảo nghiệm về phẩm chất đạo đức. “Nén bạc đâm toạc tờ giấy”. Nhưng ở đây nó đâm toạc cả nhân cách, trái tim của người cộng sản, nếu người đó sa vào chủ nghĩa cá nhân, vi phạm kỷ luật. Họ làm nô lệ cho đồng tiền, sẵn sàng bán cả bí mật quốc gia, có những hành động chống đối hoặc đứng đằng sau cổ súy cho những hành động chống đối, bôi đen chế độ chính trị hiện hành... Họ sẵn sàng nhận những đồng tiền bẩn của các thế lực thù địch để chống đối sự nghiệp cách mạng của đất nước. Lợi ích vật chất và dục vọng của cuộc sống là sự khảo nghiệm lớn nhất, nghiệt ngã nhất để thấy rõ người cán bộ, đảng viên có giữ gìn kỷ luật Đảng, có mắc phải căn bệnh cá nhân chủ nghĩa hay không. Rất đáng tiếc, có cả một số cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước, do tính kỷ luật kém, do không đủ bản lĩnh và thiếu tu dưỡng đạo đức cho nên nhanh chóng bị quyền lợi vật chất và sắc dục đánh gục.
Hai là, cần đặt vấn đề đảng viên thực hiện kỷ luật Đảng trong khuôn khổ rèn luyện đạo đức cách mạng.
Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh vấn đề xây dựng, rèn luyện đạo đức trong Đảng, cho nên, ngoài việc đề ra như các Đại hội trước là xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, còn nêu thêm xây dựng Đảng về đạo đức. Đây là sự nhấn mạnh cần thiết trong bối cảnh Đảng lãnh đạo toàn diện sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu và toàn diện, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong toàn cầu hóa. Vấn đề rèn luyện đạo đức cách mạng càng trở nên bức thiết hơn khi rất nhiều những cám dỗ về lợi ích vật chất đặt ra trước mắt đảng viên trong sự khơi mở của danh lợi con người thời kỳ mới, thời kỳ của nhiều giá trị tinh thần tốt đẹp đang bị băng hoại. Một con người khi đã đứng trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời bình bị thử thách rất lớn về vấn đề lợi ích, chủ yếu là lợi ích vật chất, buộc phải hằng ngày hằng giờ xử lý mối quan hệ lợi ích cá nhân mình với lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của nhân dân. Tuân thủ kỷ luật của Đảng cũng tức là tuân thủ mối quan hệ lợi ích đó.
Ba là, vấn đề kỷ luật Đảng đi đôi với vấn đề chống chủ nghĩa cá nhân.
Kỷ luật của Đảng đòi hỏi lợi ích của cá nhân và lợi ích của Đảng phải hài hòa với nhau. Do vậy, đảng viên cần hướng chỉnh cho lợi ích của cá nhân mình hợp với lợi ích của Đảng. Mỗi một cá nhân đảng viên là một tế bào của cơ thể Đảng. Mỗi khi mắc phải căn bệnh chủ nghĩa cá nhân thì tế bào đó là tế bào không lành mạnh. Rất nhiều lần, Hồ Chí Minh đã tuyên bố rằng, Đảng ra đời và phát triển không phải vì mục đích tự thân, mà là vì độc lập cho Tổ quốc và vì hạnh phúc của nhân dân; rằng, tất cả mọi đường lối, chính sách của Đảng đều chỉ nhằm đưa lại lợi ích cho nhân dân. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn luôn vừa là người lãnh đạo, đồng thời vừa là công bộc, đầy tớ của nhân dân. Cá nhân và tập thể Đảng phải trở thành một khối vững chắc trong giải quyết các mối quan hệ hằng ngày của đảng viên với tổ chức Đảng.
Trong thực tế cuộc sống, những đảng viên mắc phải căn bệnh cá nhân chủ nghĩa chỉ chăm lo đến lợi ích của cá nhân mình. Biểu hiện rõ nhất là trong công tác cán bộ và lợi ích nhóm, lợi ích gia đình, mà những lợi ích này trái với lợi ích của Đảng. Trong vài nhiệm kỳ gần đây, văn kiện Đại hội Đảng đã đề cập nhiều kiểu “chạy” thể hiện rất rõ căn bệnh này. Trong thực tế thì các kiểu chạy còn phong phú hơn: chạy bằng cấp, chạy huân-huy chương, chạy danh hiệu, chạy tội, chạy tuổi, chạy chức, chạy quyền, chạy luân chuyển, chạy quy hoạch, chạy việc, chạy vào chỗ có liên quan đến vật chất để hòng lợi dụng kiếm chác v.v. Những người mắc căn bệnh cá nhân chủ nghĩa khi “chạy” các kiểu này thường tung hết các mánh khóe, đặc biệt là dùng vật chất và sắc dục, để được đề bạt, bổ nhiệm vào những chức vụ trong hệ thống chính trị, đặc biệt là những chức vụ liên quan nhiều đến lợi ích vật chất.
Họ còn tìm mọi cách để đưa những người trong gia đình, những người cùng cánh hẩu, nghĩa là những người thân tín, vào nắm giữ các chức vụ ở các cấp. Do đó, hình thành các nhóm lợi ích, mà thực chất cũng là mưu cho lợi ích cá nhân mình. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh hiện nay, có không ít những biểu hiện lệch lạc của việc giải quyết các mối quan hệ lợi ích của cá nhân - doanh nhân - nhân dân. Họ thường núp bóng tập thể, thậm chí là núp bóng lợi ích quốc gia, lợi ích của Đảng để nhằm đạt được điều có lợi cho bản thân mình. Rõ nhất là qua giải quyết vấn đề tài sản công, trong đó chủ yếu là tài sản đất đai, qua xử lý cho thuê đất, đền bù đất đai ở các doanh nghiệp, ở đấu thầu dự án, đầu tư các công trình công cộng, quản lý doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa, v.v. Trong công tác cán bộ, nếu bổ nhiệm những cán bộ, đảng viên mắc phải căn bệnh cá nhân chủ nghĩa thì đều được núp dưới những tuyên bố “đúng quy trình”. Thành thử, cụm từ “đúng quy trình” trong hoạt động của các tổ chức Đảng vốn được hiểu theo nghĩa tích cực, đúng đắn, thì lại trở thành cụm từ được hiểu theo nghĩa tiêu cực bởi những quyết định sai lầm về nhân sự cán bộ lãnh đạo.
Bốn là, thực hiện kỷ luật Đảng chính là sự biểu hiện của tinh thần trách nhiệm và hành động tích cực chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan liêu là giặc nội xâm. Tham nhũng hiện được nhiều người gọi là “quốc nạn”, nhưng nên gọi tên đúng nhất là “giặc”. Nếu là nạn thì dùng phương pháp chống nạn, còn đây là giặc thì phải dùng phương pháp chống giặc, giết giặc, tiêu diệt giặc. Bộ ba tham nhũng/tham ô - lãng phí - quan liêu trở thành những nhân tố làm hại Đảng, làm hại Tổ quốc, nhưng những người không có tính kỷ luật, mang bệnh cá nhân chủ nghĩa bất chấp, miễn là có lợi cho bản thân và gia đình mình. Biểu hiện của tham nhũng là ở chỗ, những đảng viên có chức có quyền, nhất là những người liên quan đến của cải vật chất, tiền bạc của công, bị thoái hóa biến chất cộng với kẽ hở của pháp luật, chính sách và bị lơi lỏng kiểm tra, giám sát quyền lực thì sẽ đẻ ra tham nhũng. Lãng phí dễ thấy ở đây là lãng phí công sản, chi tiêu ngân sách bạt mạng, lãng phí đầu tư, bị hối lộ chi phối, tìm trăm phương ngàn kế để cho những người xấu trúng thầu dự án, còn bản thân mình hưởng lợi, mặc cho những thế hệ sau gánh chịu hậu quả. Sự lơi lỏng trong kiểm tra, giám sát quyền lực trong thời gian qua và hiện nay đã tiếp tay cho chủ nghĩa cá nhân hoành hành. Các vụ án và các vụ kỷ luật cũng như những vụ tiêu cực trong bộ máy hệ thống chính trị bị phanh phui trong thời gian qua đã phơi bày một phần của tảng băng chìm những điều thực chất do kém kỷ luật trong Đảng, do chủ nghĩa cá nhân gây ra. Đất nước bị mất hàng chục nghìn tỷ đồng, điều đó rất đáng đau xót. Nhưng, đáng buồn nhất, đau xót nhất là ở chỗ do những tiêu cực như vậy cho nên nhiều giá trị văn hóa đạo đức bị băng hoại, đặc biệt làm cho niềm tin của nhân dân, của xã hội đối với Đảng bị suy giảm nhanh chóng. Mà khi đã suy giảm và mất niềm tin thì mất tất cả. Những biểu hiện tình trạng vô kỷ luật và những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân như thế không chỉ có trong cán bộ cấp dưới, mà nguy hiểm hơn chúng còn có trong một số cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt. Nhiều cán bộ, do tính kỷ luật rất kém, do chủ nghĩa cá nhân chi phối mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, thoái hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ.
Đảng phải mạnh, phải trong sạch, trong sáng. Trong Đảng, chắc chắn ai cũng mong như thế. Và, đó là di huấn của Hồ Chí Minh mà các thế hệ đảng viên phải ra sức thực hiện khi đọc lại tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân mà Hồ Chí Minh rút từ tâm can mình trong năm cuối đời, dịp kỷ niệm thành lập Đảng (3-2-1969).
______________________________
(1), (2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.611, 612, 616.
(4) Sđd, t.5, tr.292-293.
(5), (6), (7) Sđd, t.15, tr.622, 547, 547.
GS, TS MẠCH QUANG THẮNG
Viện Lịch sử Đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh