Một điều rất nên lưu ý là tìm hiểu ngụ ngôn chính trị của Bác Hồ chúng ta phần nào hình dung được quá trình, phương pháp cách mạng tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc một cách rất có chủ ý của Người.
Ngụ ngôn, với đặc trưng là lời nói, mẩu chuyện trong đó gửi gắm một ý tứ xa xôi, bóng gió có tính giáo dục bài học nhân sinh gì đó được sử dụng rộng rãi, phổ biến trong dân gian nên được các nhà chính trị, tư tưởng lấy đó để diễn đạt các suy nghĩ, quan niệm của họ. Thực tế các nhà ngụ ngôn nổi tiếng thế giới như Êdốp, Pheđơrơ, La Phôngten, Trang Tử, Liệt Tử… cũng đều là các nhà tư tưởng. Trường hợp Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, với tư cách là một nhà chính trị cũng mượn ngụ ngôn để sử dụng vào mục đích chính trị, tôi gọi đó là ngụ ngôn chính trị.
Một điều rất nên lưu ý là tìm hiểu ngụ ngôn chính trị của Bác Hồ chúng ta phần nào hình dung được quá trình, phương pháp cách mạng tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc một cách rất có chủ ý của Người. Theo chúng tôi tác phẩm văn học đầu tiên của Người là một truyện ngụ ngôn có tên Động vật học in trên Báo Le Paria, số 2, ngày 1/5/1922 (in trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H, 2002, tập 1, tr.58. Những dẫn chứng trong bài viết, trừ những tác phẩm được chú thích ở cuối bài, chúng tôi đều lấy từ bộ sách này). Truyện này mang đậm tính trào phúng nên có thể gọi chung là ngụ ngôn - trào phúng chính trị. Chủ đề chính của tác phẩm là thức tỉnh ý thức nô lệ được thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Con người chấp nhận kiếp nô lệ cũng chỉ là một động vật.
"Một vài đức tính thực dụng của nó còn cao hơn cả những đức tính thực dụng của các loài gia súc nữa kia. Một khi thuần thục rồi, thì tự nó để cho người ta hớt lông như một con cừu, chất đồ nặng lên lưng như một con lừa, và đưa vào lò sát sinh như một con bê".
Nếu tiếng cười là một sự phê phán thì đây là một sự phê phán đích đáng, một sự phê phán đau đớn vạch ra trạng thái thảm hại của con người nô lệ. Chúng ta hãy chú ý phép so sánh: "…cao hơn cả những đức tính thực dụng của các loài gia súc nữa kia…". Thế thì kiếp nô lệ còn nhục nhã hơn, xót xa hơn kiếp súc vật.
Có người sẽ đặt ra câu hỏi: viết thế thì có phải là một sự coi thường, khinh rẻ con người? Không. Tôi sẽ trả lời rằng ngàn lần không, mà là sự ngược lại, phải có tấm lòng kính trọng con người, một tình yêu vô cùng sâu sắc đối với con người thì mới có những câu văn đẫm nước mắt như thế. Bởi vì phải vạch ra trạng thái phi nhân tính thảm hại để con người hiểu, hiểu để mà thức tỉnh, rồi tiến hành đấu tranh đòi trả lại một cuộc sống đích thực nhân tính.
- Con người chấp nhận làm tay sai, theo đuôi kẻ khác cũng là một động vật.
"Loài động vật này rất dễ bị loá mắt. Nếu người ta bắt ra một con, to nhất hay mạnh nhất trong bầy, và đeo vào cổ nó một vật gì lóng lánh như một đồng tiền vàng hay một huân chương chẳng hạn, thì nó liền trở thành hoàn toàn ngoan ngoãn, lúc đó người ta có thể sai nó làm bất cứ việc gì và bảo đi đâu cũng được… và các con khác cứ việc theo nó một cách… khờ dại, nếu có thể nói như thế được".
Một sự mỉa mai về sự ngu dốt, về tâm lý hám danh của những kẻ cam tâm làm tay sai cho thực dân và cả sự mỉa mai về tâm lý bầy đàn, theo đuôi, a dua, không biết phân biệt phải trái, trắng đen, hay dở của những người dân bản xứ ít học.
- Để thoát khỏi kiếp nô lệ động vật thì phải… "tiến hoá".
"Các nhà bác học của Hội động vật đế quốc Anh (B.I.Z.A- British Imperial Zoological Association) vừa cho biết rằng loài sống trên bờ ấn Độ Dương và trên bờ xứ Libi, vùng Hồng Hải, bắt đầu có những tiến hoá rất rõ rệt: nó không chịu để người ta bắt một cách dễ dàng, và không chịu để cho người ta đem về nuôi làm gia súc nữa. Hiện tượng mới đó không khỏi gây lo ngại cho các giới công nghiệp và khoa học trên thế giới và đặc biệt là cho những giới đó ở phố các nhà giàu sụ Luân Đôn vì, tuy thịt loài vật đó không ăn được vì không thể ướp lạnh được, nhưng máu và mồ hôi của nó lại trở thành những thứ không thể thiếu để đổ dầu mỡ cho những cái máy chứa dồi thịt".
Có thể hiểu thoát ý đoạn này bằng cách bóc đi lớp vỏ muối trào phúng bên ngoài, ý câu văn sẽ là: các dân tộc trên bờ Ấn Độ Dương, trên bờ xứ Libi, vùng Hồng Hải đang nổi dậy để chống lại ách áp bức của ngoại bang. Điều này làm cho giới nhà giàu và công nghiệp tư bản hết sức lo ngại vì chúng sẽ mất đi nguồn lợi lao động vô cùng to lớn. Nhưng thế là nói thẳng, nói thẳng thì sẽ bị cắt bởi lưỡi kéo kiểm duyệt của chính quyền Pháp. Phải nói vòng, nói vòng một cách văn chương, phải ướp vào câu văn tinh thần hài hước mỉa mai để kêu gọi thức tỉnh các dân tộc thuộc địa, để cảnh tỉnh chủ nghĩa tư bản đế quốc: một cơn bão của đấu tranh dân tộc ở các nước thuộc địa sẽ cuốn phăng những kẻ bóc lột nước ngoài.
Cùng chủ đề với truyện này là bài báo Mấy ý nghĩ về vấn đề thuộc địa đăng trên Báo L’Humanite’ ngày 25/5/1922, Người chỉ rõ "tình trạng dốt nát của người dân bản xứ" và tâm lý nô lệ thảm hại: "…giống như con chó trong truyện ngụ ngôn, họ lại thích đeo cái vòng cổ để kiếm xương của chủ" (Tập 1, tr.64). Nằm trong mạch chủ đề này, trong tác phẩm Bộ sưu tập động vật đăng trên Báo Le Paria ngày 1/2/1923, Người mỉa mai sự chấp nhận nô lệ là kiếp loài vật, kiếp "con chim sẻ", "con vẹt", "con chó": "Lại cũng phải nhận rằng các nhà đi khai hóa của chúng ta đã không từ một sự cố gắng nào để cắm cho mấy con chim sẻ bản xứ - rất dễ bảo và rất ngoan ngoãn - vài cái lông công làm cho chúng trở thành những con vẹt hay những con chó giữ nhà" (Tập 1, tr.144).
Dĩ nhiên Người cũng hướng ngòi bút mỉa mai châm biếm vào những tên kẻ cướp - chủ nghĩa thực dân đế quốc, dưới danh nghĩa đi "khai hóa văn minh" nhưng thực chất là đi xâm lược, đi ăn cướp các thuộc địa. Bộ sưu tập động vật (Me’nagerie) là một ngụ ngôn - trào phúng mang ý nghĩa luận tội, kết án: "Người ta thường quên, tưởng rằng các nhà bảo hộ của chúng ta lúc nào cũng thi hành cái chính sách của loài đà điểu" (Tập 1, tr.141). Đà điểu là một loài chim lớn sống ở miền nhiệt đới châu Phi có dạ dày rất khỏe, "chính sách của loài đà điểu" (Politique de l’autruche) là một ẩn dụ mỉa tố cáo chính sách vơ vét tham lam vô độ của chủ nghĩa thực dân đế quốc. "Cái con chó ngắn mõm chẳng đã chạy đến nhe bộ răng khả ố của nó ra mà xé toạc cả cơ cấu của Hội nghị Pari đó sao? Thành thử con khỉ phlamăng và con gà trống gôloa phải một mình đương đầu với con phượng hoàng giécmanh ở miền Ruya". Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), các đế quốc tham gia chiến tranh họp Hội nghị Vécxây để phân chia lại quyền lợi và bàn cách tăng cường bóc lột thuộc địa. "Con chó ngắn mõm" ám chỉ nước Anh, "con khỉ phlamăng" ám chỉ nước Bỉ, "gà trống gôloa" - nước Pháp, "con phượng hoàng giécmanh" - nước Đức. Cách dùng ẩn dụ trào phúng đã làm nổi lên bản chất ăn cướp và những mâu thuẫn quyền lợi không thể dung hòa của chủ nghĩa đế quốc.
Trong Động vật học tác giả cũng mỉa mai những kẻ bóc lột cũng chỉ là một loại động vật vì chỉ biết đến tiền và bóc lột kẻ khác.
Tiêu biểu là "ông Giôdép Caiô, cựu Thủ tướng, nhà lý tài ngoại ngạch, một nhà văn không phải tồi, không phải tương đối tồi như Anhxtanh nói, sau khi đã cai trị 40 triệu dân Pháp, đã nắm trong tay hàng triệu, hàng tỷ bạc, ông viết sách vở, rồi một buổi sáng nọ, ông vò đầu và gãi điên cuồng - không phải là gãi tóc, vì ông ta không có sợi tóc nào cả - mà gãi tai, đồng thời tự hỏi và hỏi người khác: Châu Âu sẽ đi tới đâu nhỉ? Nước Pháp sẽ đi tới đâu nhỉ? Câu hỏi tuy có vẻ rất giản đơn, nhưng cho đến nay vẫn chưa giải đáp được, trừ phi…
Này Ngài Thủ tướng, xin ngài cho tôi biết chân của châu Âu và nước Pháp ở chỗ nào, tôi sẽ nói cho ngài biết châu Âu và nước Pháp sẽ đi tới đâu!".
Chất mỉa mai bật ra ở câu nói kháy "… chân của châu Âu và nước Pháp…". Nước Pháp và hầu như cả châu Âu lúc này đang sống bằng cách bóc lột thuộc địa, do vậy muốn biết họ "sẽ đi tới đâu" thì phải xem họ đang bóc lột ở những nơi nào. Một cách nói kháy mát mẻ, đầy ẩn ý không thể hiểu ngay. Nhưng đến câu này thì thật dễ hiểu: "Loài động vật này ăn thịt, ăn gạo, ăn cỏ và ăn cả ngân sách nữa. Cần chú ý rằng khi đã có thể tiến đến trình độ ăn ngân sách thì thường bị coi là thoái hóa, vì nó đã mất hết tinh thần của nòi giống rồi". Chúng tôi cho rằng những câu nói này ở ngày hôm nay - trên đất nước ta vẫn nguyên tính thời sự, phải coi những kẻ tham nhũng "ăn cả ngân sách" cũng là loài động vật bị thoái hóa, tức là không còn cả tư cách của loài động vật thông thường nữa.
Ngày 29/9/1922 trên báo L’Humanite’ có in truyện ngụ ngôn Đồng tâm nhất trí của Nguyễn Ái Quốc (Tập 1, tr.111). Đại thể, truyện thế này: anh Hai đi chợ bán vàng mã, anh Ba đi chợ bán trầu non, họ "cùng đi một chợ này, theo cùng một con đường này lại có cùng một mục đích - là bán hết hàng, cùng một chí hướng - là làm ăn lương thiện kiếm miếng cơm" - lời anh Ba. Thế là họ "kết nghĩa anh em cùng nhau giao ước thắt tình hữu ái,… khuyên bảo lẫn nhau, thấy đây làm gì thì đó làm theo, mà đó đã bảo gì thì đây cũng làm y, nói tóm lại, là giữa hai ta có sự đồng tâm nhất trí" - lời anh Hai. Đường tới chợ còn xa, họ hát cho đỡ mệt, anh Hai hát, anh Ba hát theo. Gặp dòng sông, anh Ba nhúng trầu non, anh Hai cũng làm theo, nhúng vàng mã xuống nước. Đến khi trời nắng, anh Hai phơi vàng mã, anh Ba cũng làm theo, phơi trầu non… Truyện có nhiều cách hiểu, nhưng có lẽ ai cũng tán thành cho rằng qua câu chuyện, Bác Hồ là một trong những người đầu tiên giới thiệu với thế giới thể thơ lục bát đặc sắc của người Việt. Xin chép lại nguyên văn lời thơ:
Kon - mèo trèo lên cây cAU
Hỏi thăm Kon - chuột đi đÂU vắng nhà
Thưa rằng đi chợ đường xA
Mua đồ vật liệu giỗ chA Kon - mèo.
...
Trông lên hòn núi Thiên ThAI
Thấy bầy chim quạ ăn xoàI chín cây.
Bản phiên âm tiếng Pháp có in nguyên bản lời thơ bằng tiếng Việt và được dịch ra tiếng Pháp. Những ký tự in hoa là dụng ý của tác giả để giới thiệu cách gieo vần của thể thơ lục bát, chữ cuối ở câu lục ăn vần với chữ thứ sáu của câu bát, chữ cuối của câu bát lại ăn vần với chữ cuối của câu lục. Có lẽ tác giả muốn cải tiến âm C bằng âm K (trong chữ quốc ngữ) nên ký tự này luôn được in hoa, nhưng rất có thể là để tránh sự hiểu nhầm của độc giả Pháp vì chữ con trong tiếng Pháp có nghĩa tục, vì thế mà các chữ Kon - mèo, Kon - chuột luôn có gạch nối để phân biệt. Đã có cách hiểu cho rằng tác giả muốn khẳng định một nguyên tắc quan trọng là nếu nguyện vọng của cá nhân và tập thể có mâu thuẫn thì phải biết hy sinh quyền lợi cá nhân cho quyền lợi tập thể. Hình ảnh vàng mã và trầu non tượng trưng cho sự khác biệt và tương phản của quyền lợi riêng. Nhân vật anh Hai và anh Ba soi sáng tính cách anh hùng, bền bỉ, đoàn kết, hy sinh vì đại nghĩa của nhân dân ta. Cách hiểu này khó chấp nhận vì tính chất gán ghép trong lập luận khi cho rằng "vàng mã và trầu non tượng trưng cho sự khác biệt và tương phản của quyền lợi riêng" và hai nhân vật anh Hai, anh Ba cũng không có một nét tính cách nào để có thể "soi sáng tính cách anh hùng, bền bỉ, đoàn kết, hy sinh vì đại nghĩa của nhân dân ta". Có lẽ nên hiểu là tác giả đặt vấn đề không thể đồng tâm nhất trí một cách máy móc, và phê phán việc đoàn kết không vì mục đích quyền lợi chung. Căn cứ ngay vào bản chất của hình tượng cũng dễ hiểu là nếu đem trầu non phơi nắng, vàng mã nhúng nước (những hành động ngược đời) thì còn ai mua nữa (không có mục đích). Truyện được viết theo phong cách trào phúng của một ngụ ngôn chính trị khi ta thấy lời miêu tả mang tính bình luận của người kể được nhại lại: "Một lời đã hứa… làm theo không chối cãi" càng củng cố thêm cho cách hiểu sau là đúng.
Đồng tâm nhất trí đánh dấu một bước nhận thức sâu sắc về một phương pháp cách mạng cực kỳ quan trọng là đoàn kết, không phải là đoàn kết chung chung mà đoàn kết có tổ chức, phù hợp với tình hình mỗi nước. Chúng tôi xin dẫn chứng một đoạn trong Thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp (1923), vừa làm rõ cách hiểu ở trên vừa để thấy con đường hoạt động cách mạng của Người, ngay từ những ngày đầu, năm đầu đi tìm đường cứu nước là cực kỳ đúng đắn, khoa học, hết sức biện chứng:
"Các bạn thân mến,
Bao lâu nay chúng ta làm việc với nhau.
Mặc dầu chúng ta là những người khác giống, khác nước, khác tôn giáo, chúng ta đã thân yêu nhau như anh em.
Chúng ta cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự bạo ngược của chế độ thực dân. Chúng ta đấu tranh vì một lý tưởng chung: giải phóng đồng bào chúng ta và giành độc lập cho Tổ quốc chúng ta.
Trong cuộc chiến đấu của chúng ta, chúng ta không cô độc, vì chúng ta có tất cả dân tộc của chúng ta ủng hộ và vì những người Pháp dân chủ, những người Pháp chân chính, đứng bên cạnh chúng ta.
Công việc chung của chúng ta "Hội Liên hiệp thuộc địa" và tờ báo Người cùng khổ đã có những kết quả tốt. Nó đã làm cho nước Pháp, nước Pháp chân chính hiểu rõ những việc xảy ra trong các thuộc địa. Làm cho nước Pháp hiểu rõ bọn cá mập thực dân đã lợi dụng tên tuổi và danh dự của nước Pháp để gây nên những tội ác không thể tưởng tượng được. Nó đã thức tỉnh đồng bào chúng ta. Đồng thời nó cũng khiến cho đồng bào chúng ta nhận rõ nước Pháp, nước Pháp tự do, bình đẳng và bác ái. Nhưng chúng ta còn phải làm nhiều hơn.
Chúng ta phải làm gì?
Chúng ta không thể đặt vấn đề ấy một cách máy móc.
Điều đó tùy hoàn cảnh của mỗi dân tộc chúng ta.
Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập…" (Tập 1, tr. 191-192).
Nội dung bức thư này càng khẳng định cho ý nghĩa của truyện Đồng tâm nhất trí là tuy mục đích thì chung nhưng với mỗi trường hợp thì phải có cách riêng chứ không làm theo nhau một cách mù quáng máy móc như anh Hai và anh Ba nọ. Đồng tâm nhất trí viết bằng tiếng Pháp hướng tới độc giả là các đồng chí, đồng bào biết tiếng Pháp, in trên Báo Nhân đạo ngày 29/9/1922, vì là một tác phẩm văn học nên ý nghĩa của nó phải kín đáo, bóng gió như vậy.
Lá thư này cho thấy một bước ngoặt trong đời hoạt động cách mạng của Người: hướng về Đông Dương, dĩ nhiên, mục đích tối thượng của Nguyễn ái Quốc là giải phóng dân tộc mình, nhân dân mình nên Người dành nhiều tâm huyết hơn cả để thức tỉnh cả "dân tộc An Nam", nhất là thanh niên. Trong Bản án chế độ thực dân Pháp có phần Phụ lục Gửi thanh niên An Nam: "Người Airlan, Ai Cập, Triều Tiên, ấn Độ, tất cả những người chiến bại hôm qua và nô lệ hôm nay đó, đương đấu tranh dũng cảm cho nền độc lập ngày mai của họ. Riêng người An Nam, thì vẫn cứ thế: sẵn sàng làm nô lệ". Những dòng cuối cùng tác giả đưa ra lời bình luận thức tỉnh:
"Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám Thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh" (Tập 2, tr.133).
Trong Thư trả lời ông H. (Thượng Huyền) ngày 9/4/1925 (Tập 2, tr.156-165) Nguyễn Ái Quốc mượn truyện ngụ ngôn Hội đồng chuột để châm biếm mỉa mai thói xấu của người An Nam. Sau khi tóm tắt truyện này, tác giả đưa ra lời bình luận đắt giá như sau:
"Phải, không một con chuột nào của La Phôngten nói trong thơ ngụ ngôn dám buộc chuông lên cổ mèo; tuy vậy chúng đều căm ghét kẻ thù của chúng và đồng tình sẽ treo cổ nó lên. Những con chuột ấy thật là hơn hẳn "những con chuột An Nam" không biết căm thù "những con mèo Pháp", vì những con chuột này không biết đoàn kết lại để bàn việc tiêu diệt những con mèo kia, chúng sợ rằng trong hàng ngũ chuột của chúng sẽ có con đi báo với mèo Pháp.
Những người tự hào là dòng giống Rồng Tiên lại không bằng chuột! Thật là hổ thẹn, có phải không thưa ông!" (Tập 2, tr.164). Lời bình hướng tới hai sự phê phán đích đáng: tinh thần bạc nhược, đớn hèn và sự phản bội xấu xa. Toát lên một chân lý phổ quát: người An Nam phải biết đoàn kết lại thì mới sửa chữa được những thói xấu ấy.
Và đến Truyện ngụ ngôn được Người viết tại Quảng Châu năm 1925 (Tập 2, tr.444) thì tinh thần phê phán còn cao hơn và ý nghĩa rõ ràng hơn cho đối tượng là "dân An Nam". Truyện có lời mở đầu mang tính mời gọi, hấp dẫn:
"Hãy nghe câu chuyện ngụ ngôn này. Tất cả các bạn, hãy im lặng và lắng nghe!
Loài vật đang tranh nhau công trạng…".
Có thể tóm tắt truyện thế này, con rồng tự hào là thủy tổ của người An Nam có nhiều bậc anh hùng cứu nước. Con tôm "phản biện" lại, nói tôm sướng hơn người An Nam vì thân nó cong là do ý trời còn người An Nam lưng còng là chịu sưu cao thuế nặng. Con cừu đồng tình nói, người An Nam giống loài thỏ, cừu bị cắt lông một năm một lần nhưng người An Nam bị Pháp bóc lột tứ thời. Rắn nói người Pháp "khẩu Phật tâm xà" mà người An Nam lại rước họ vào nước mình. Voi buồn cho người An Nam "rước voi về giày mả tổ". Lươn chê người An Nam dễ để cho đồng tiền cám dỗ. Chuột mỉa mai người An Nam không nghĩ gì đến đất nước. Gà trống khinh người An Nam vì tiền mà bội bạc. Cá chép sung sướng bởi mình sẽ có ngày hóa rồng mà buồn thay cho dân An Nam suốt đời nô lệ mà không dám vùng lên… Kết lại câu chuyện là lời bình luận của người kể: "Ôi, những người An Nam, các anh phải luôn nhớ rằng đoàn kết làm nên sức mạnh".
Dễ thấy một sự học tập hình thức truyện Lục súc tranh công trong ngụ ngôn dân gian để châm biếm sự ươn hèn, yếu đuối, bạc nhược cam chịu nô lệ nhục nhã của "dân An Nam". Câu chuyện không chỉ đáng đọc ở cái thời đất nước ta đắm chìm trong nô lệ mà cũng rất đáng đọc ở cái thời nay, đọc để tự ý thức về tinh thần vươn lên, về cởi bỏ những tâm lý xấu, tính cách xấu… Hôm nay người ta nói nhiều đến phản biện, phản biện xã hội, coi phản biện như là một hình thức tư duy mới mẻ, tiến bộ. Thực ra phản biện, phản biện xã hội luôn là một thuộc tính tư duy của con người, càng có tinh thần khoa học, dân chủ, càng có khát vọng đổi thay xã hội, làm mới, làm tốt cho con người thì càng giàu ý thức phản biện. Không phải ai cũng có ý thức phản biện và năng lực phản biện, phải là người có trách nhiệm sâu sắc với xã hội, có tình yêu con người, có năng lực phát hiện vấn đề… mới có thể phản biện được. Trên tinh thần ấy tôi thấy Bác Hồ là một người luôn có tinh thần phản biện mà hôm nay chúng ta rất nên học tập về mọi phương diện, ý thức, cách thức, đề tài, nội dung.
Năm 1929, Bác Hồ từ châu Âu về nước Xiêm phát triển tổ chức Việt kiều gây dựng cơ sở cách mạng, một hôm trên đường đi công tác Bác kể cho đồng chí của mình câu chuyện ngụ ngôn Pháp Trẻ con không nên nghe trộm. Chuyện rằng: "Có hai em bé vào chơi trong rừng. Mải mê nghe chim kêu, xem bướm lượn cùng những thú rừng kỳ lạ khác, trời sập tối lúc nào không hay. Hai em đang lo lắng thì gặp một ông cụ tiều phu. Cụ đưa hai em về nhà cho ăn và ngủ. Đến đêm, cụ ông bàn với cụ bà làm thịt gà để ngày mai thết hai em bé. Cụ ông nói: "Thịt con lớn hay con bé?". Cụ bà bảo: "Nói khẽ chứ! Nói to, chúng nghe, chúng chạy mất…". Lúc này hai em vẫn còn thức, nghe thấy thế, đinh ninh là các cụ bàn cách thịt mình, nên lo sốt vó…"(1). Tưởng đó chỉ là câu chuyện vui nhưng đấy lại là một bài học chính trị về nhận định con người để gây dựng cơ sở cách mạng, mà như lời bình luận của Bác, có những người "có thái độ bề ngoài tuy thô lỗ như cục sắt nhưng bên trong lại là một tấm lòng vàng". Theo chúng tôi, những câu chuyện ngụ ngôn mà Bác kể như chuyện trên sinh động và thuyết phục hơn nhiều những bài học lý thuyết chay về mối quan hệ giữa hiện tượng và bản chất, giữa hình thức và nội dung… trong việc nhận xét cá nhân, xây dựng tổ chức cách mạng.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, với nhãn quan chiến lược Bác Hồ ủng hộ Đồng Minh, ngày 24/11/1940 trên Cứu vong nhật báo(Trung Quốc) Người viết bài Chú ếch và con bò (Tập 3, tr.177) dưới bút danh Bình Sơn. Bằng giọng hài hước tác giả tóm tắt lại câu chuyện ngụ ngôn nước Pháp, ở phần bình luận tên độc tài người ý Mútxôlini được ví như chàng ếch tội nghiệp kia, vì không biết lượng sức mình mà đem quân đánh Hy Lạp, nào ngờ bị "mảnh giáp không còn", chú ếch Mútxôlini đã "ô hô toi mạng". Câu chuyện phỏng ngụ ngôn, hài hước, vui nhưng quan điểm chính trị thì rất rõ ràng: đứng về phe Đồng Minh, mỉa mai phê phán phe Trục. Chiến tranh thế giới càng leo thang ác liệt thời cơ giải phóng đất nước càng tới gần, Bác Hồ chuyển về nước để trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng. Thời điểm này cách mạng đòi hỏi phải có lực lượng, mà muốn có lực lượng thì phải đoàn kết, Người đã mượn ngay hình thức ngụ ngôn dân gian để tuyên truyền kêu gọi. Một loạt truyện ngụ ngôn được Người viết trong những thời điểm rất gần nhau: Ca sợi chỉ (1/4/1942), Hòn đá (21/4/1942), Con cáo và tổ ong(1/7/1942), Nhóm lửa (1/8/1942), Chơi giăng (21/8/1942). Vì là hướng tới mọi đối tượng, đặc biệt là tầng lớp nông dân ít học nên những truyện này rất giản dị, dễ hiểu, thường có cấu trúc hai phần, phần đầu là kể chuyện, phần hai là lời bình luận để kêu gọi đoàn kết, ví dụ phần cuối bài Ca sợi chỉ:
Hỡi ai con cháu Hồng Bàng
Chúng ta phải biết kết đoàn mau mau
Yêu nhau xin nhớ lời nhau
Việt Minh hội ấy mau mau phải vào.
Phần cuối bài Con cáo và tổ ong:
Ong kia yêu giống, yêu nòi
Đồng tâm, hợp lực đuổi loài cáo đi.
Bây giờ ta thử so bì,
Ong còn đoàn kết huống chi là người!
Nhật, Tây áp bức giống nòi,
Ta nên đoàn kết để đòi tự do.
Chúng tôi lại cho rằng những tác phẩm ngụ ngôn trên thực sự nghệ thuật, một thứ nghệ thuật tuyên truyền rất giản dị mà hiệu quả.
Nửa đầu năm 1944 thực dân Pháp tiến hành khủng bố, lùng sục gắt gao, cách mạng có nơi sa vào thoái trào, không tránh được tình trạng có một bộ phận cán bộ, nhân dân hoang mang. Bác Hồ giải thích tình hình bằng một ngụ ngôn mà có lẽ không một lý luận nào hay hơn có thể thay thế: "Hiện nay lính Pháp đông thì có đông, súng nhiều thì có nhiều, nhưng so với lực lượng quần chúng của ta thì có thấm vào đâu. Nó chỉ là con trâu già mà Đội Việt Nam tuyên truyền Việt Nam giải phóng quân của chúng ta là con voi non. Con voi non tuy hiện giờ còn yếu, nhưng mỗi ngày một lớn lên và khỏe ra, nó sẽ giơ vòi quật chết con trâu già"(2). Ngoài một thiên tài về tầm nhìn chiến lược, về nhận định thế cuộc, phải khẳng định Bác Hồ là một nhà văn, nhà ngôn ngữ kiệt xuất trong việc dùng ngôn ngữ, hình tượng văn học để diễn đạt một cách chính xác, tinh tế nhất tình hình chính trị. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam mới tổ chức Tổng tuyển cử. Bác Hồ chủ động nhường cho Nguyễn Hải Thần và Nguyễn Tường Tam bảy mươi ghế trong Quốc hội. Nhưng đối với bọn phản động này thì nhân dân lại rất khinh bỉ nên có người băn khoăn, thắc mắc, Bác Hồ giải thích: "Muốn giồng khoai giồng lúa, người ta phải dùng phân. Muốn đi đến dân chủ mà tất cả chúng ta đều muốn, đôi khi chúng ta phải làm những việc chúng ta không vui lòng làm" (3). Lời Bác thật hết sức giản dị qua một ngụ ngôn gần gũi, quen thuộc với đại đa số nhân dân ta đã làm mọi người yên lòng.
Bác Hồ đã coi truyện ngụ ngôn như là một thứ vũ khí cách mạng, để phê phán, tố cáo kẻ thù, để cảnh tỉnh, thức tỉnh người nô lệ, kêu gọi dân ta đoàn kết, để giải thích tình hình… Chúng tôi tìm thấy một chi tiết trong Trả lời ông Vaxiđép Rao, thông tín viên hãng Roitơ, Người mượn câu chuyện ngụ ngôn để vạch trần một cách đích đáng luận điệu xảo trá của thực dân Pháp khi chúng gây hấn trở lại hòng cướp nước ta lần nữa.
"Hỏi:… Xin Chủ tịch cho biết ý kiến về lời tố cáo của những người Pháp nói rằng Việt Nam đã gây ra cuộc xung đột hiện nay?
Trả lời:… Nước Việt Nam không có lợi gì gây chiến tranh để làm cho nhân dân thiệt hại và chịu bao nhiêu tang tóc. Ông hãy nhớ lại bài ngụ ngôn của Lã Phụng Tiên Con chó sói và con cừu" (Trả lời vào tháng 5-1947. Tập 5, tr.134).
Truyện Con chó sói và con cừu kể một chú sói làm đục dòng suối, con cừu ra suối uống nước liền bị sói mắng là đã làm bẩn nước, cừu cãi lại, nói chính sói mới là kẻ gây ra. Chó sói liền đòi ăn thịt cừu. Ngụ ý của câu chuyện thật dễ hiểu: liệu cái lý của kẻ mạnh mà độc ác (như sói) bao giờ cũng đúng? Không phải. Kẻ mạnh mà độc ác luôn đi ngược lại chân lý thông thường. Chỉ cần mượn một câu chuyện ngụ ngôn mà nói được bản chất của vấn đề: Pháp như con sói kia, là kẻ đi xâm lược, gây ra chiến tranh mà còn vu cho người Việt "gây ra cuộc xung đột…". Đúng là không thể nói những gì, diễn đạt những gì chính xác hơn, hay hơn cách mượn ngụ ngôn này. Lã Phụng Tiên, tức La Phôngten (La Fontaine) nhà ngụ ngôn nổi tiếng thế giới, người Pháp, tác giả của Con chó sói và con cừu. Cũng thật là thâm thúy khi Bác Hồ lấy chính một tác phẩm yêu thích của người Pháp nói chung để hài hước mỉa mai những người Pháp xấu - những kẻ thực dân.
Đầu những năm 1950 quân ta thắng nhiều trận lớn, quân Pháp có dấu hiệu xuống sức hụt hơi, thế mà chúng còn rêu rao khoe khoang là "bộ đội Pháp đánh hăng như cọp". Bác Hồ có ngay một ngụ ngôn Cọp, Nai, Thỏ (Báo Cứu quốc, số 1868, ngày 25/7/1951), sau khi thuật lại lời khai của một tù binh Pháp - hạ sĩ quan Ghiông (Guillon), tác giả đưa ra lời bình luận: "Lời khai của Ghiông có Nai, có Thỏ, có Cọp, như một vườn bách thú nhỏ. Song con cọp Pháp chỉ là cọp giấy" (Tập 6, tr.259). Một tiếng cười trào phúng vui vẻ mà sâu sắc qua so sánh "như một vườn bách thú nhỏ" đã hạ bệ thảm hại những kẻ đi xâm lược giờ đây cũng chỉ như những con thú bị "giam hãm" trong "vườn bách thú" để cho du khách tham quan ngắm nghía mà thôi. Quân Pháp có tự cho mình là cọp thì chẳng qua cũng chỉ là cọp giấy. ý nghĩa của câu nói càng có giá trị khi người nói là một vị Tổng tư lệnh quân đội kháng chiến - Chủ tịch Hồ Chí Minh, khích lệ tinh thần đánh giặc của quân ta bao nhiêu thì càng khiến cho sự hoảng loạn của lính Pháp tăng lên bấy nhiêu.
Cuối năm 1954 bộ đội ta về tiếp quản Thủ đô, vừa đánh thắng một thực dân Pháp to, trong đội ngũ cán bộ đảng viên chúng ta xuất hiện một tư tưởng công thần, đòi hỏi hưởng thụ. Câu chuyện Chiếc đồng hồ của Bác thật sự có tác dụng giáo dục to lớn: "Bác ngồi ở bàn, cầm một chiếc đồng hồ và nói: "Bác có chiếc đồng hồ này dùng đã lâu, đây là chiếc đồng hồ của đồng chí Nam Dương cho Bác". Chúng tôi nhìn chiếc đồng hồ nằm gọn trong tay Bác. Một chiếc đồng hồ quả quýt kiểu cũ. Bác hỏi tiếp: Cái đồng hồ này phía trước có hai kim và chữ số nói rằng: chúng tôi ở phía trước lâu rồi, đổi chỗ cho chúng tôi ra đàng sau. Còn những bánh xe ở đằng sau thì nói: chúng tôi ở đây đã lâu rồi cho chúng tôi ra đằng trước. Nếu tất cả mọi thứ đều yêu cầu như vậy thì chiếc đồng hồ có còn dùng được nữa không?". Rồi Bác giải thích: "Công tác cách mạng cũng thế, mỗi người đều có nhiệm vụ nhất định, do sự phân công của tổ chức, vì lợi ích của cách mạng, của nhân dân. Mọi người ai cũng làm tròn nhiệm vụ của mình thì công tác cách mạng mới hoàn thành được"(4). Đây không chỉ là bài học cho mỗi cá nhân, mỗi tổ chức mà là bài học của cả cách mạng nói chung, bài học cho muôn người, muôn đời, mọi nơi, mọi lúc.
Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng nông thôn được nhiều mà mất cũng không ít, trong những cái mất ấy là xuất hiện sự nhìn nhận, đánh giá dẫn đến loại bỏ cán bộ tốt, người tốt chỉ qua vấn đề lý lịch. Bác Hồ đã nhận ngay ra sai lầm ấy, ngày 30/3/1956 trên Báo Nhân dân, số 757 có đăng bài báo Hoa sen, có đoạn:
" …Gốc rễ cây sen ở dưới đất bùn hôi hám. Nhưng vươn mình lên mặt nước trong trẻo, hấp thụ ánh sáng mặt trời, thì HOA SEN trở nên tươi đẹp thơm tho.
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, hoa đỏ lại xen nhị vàng,
Nhị vàng, hoa đỏ, lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Người ta cũng vậy. Thành phần giai cấp và quan hệ gia đình không thể ảnh hưởng xấu đối với những người thật thà cách mạng" (Tập 8, tr.140).
Ý của Bác Hồ rất rõ: động viên những cán bộ chẳng may có gia đình bị xếp vào thành phần bóc lột nhưng họ là "những người thật thà cách mạng" thì họ vẫn như hoa sen vậy. Đồng thời nhắc nhở chung mọi người đừng đánh giá con người chỉ qua lý lịch, tầng lớp xuất thân, như cây sen kia gốc rễ ở dưới bùn đất nhưng hoa sen thì vươn cao vẫn "tươi đẹp thơm tho". Ngụ ngôn mượn bài ca dao dân gian quen thuộc, chỉ thay hai chữ "bông trắng" trong ca dao bằng hai chữ "hoa đỏ" để nhấn mạnh phẩm chất của hoa cũng là phẩm chất của người tốt. Thế mới biết Bác có tầm nhìn xa và tấm lòng nhân hậu biết chừng nào!
Chúng tôi cho rằng câu chuyện ngụ ngôn Kẻ cướp nói chuyện hòa bình đã lột tả rõ nhất hoàn cảnh nước ta bị giặc Mỹ xâm lược mà chúng lại vừa "ăn cướp vừa la làng":
"Câu chuyện rằng: Làng Xuân gồm có hai xóm, xóm Trong và xóm Ngoài.
Cả làng làm ăn rất vui vẻ. Bỗng một lũ kẻ cướp từ phương xa đến đánh chiếm xóm Trong. Chúng cướp của giết người, hãm hiếp phụ nữ, đốt phá nhà cửa, hủy hoại ruộng vườn… Chúng mua chuộc mấy đứa bất lương trong xóm làm tay sai cho chúng. Vốn có truyền thống anh hùng, dân làng xóm Trong đã nổi dậy nện cho lũ cướp giập đầu chảy máu.
Thấy không khuất phục được làng Xuân, lũ cướp một mặt thì kêu gào dân làng "bàn bạc cách giải quyết hòa bình". Mặt khác lại ồ ạt đưa thêm bọn lâu la vào xóm Trong. Không mắc lừa mưu mô xỏ lá của lũ cướp, dân làng Xuân kiên quyết bảo chúng: "Làng này là làng của chúng tao. Chúng mày là kẻ xâm lược. Trước hết, chúng mày phải cút khỏi làng này. Nếu chúng mày chần chừ, thì chúng tao sẽ đẩy chúng mày xuống biển"… Lũ cướp bèn kêu lên: "Xin thiên hạ làm chứng cho, chúng tôi muốn giảng hoà, nhưng làng Xuân không muốn!"… (Tập 11, tr.569).
Câu chuyện hết sức giản dị, chỉ là kể một câu chuyện trên dưới một trăm chữ về việc dân làng Xuân đánh cướp bảo vệ làng nhưng đọc lên thì ai cũng hiểu được lẽ phải chính nghĩa, tinh thần đoàn kết, ý chí đánh giặc của nhân dân Việt Nam; bản chất ăn cướp, luận điệu trắng trợn, xảo trá mà vô lối của đế quốc Mỹ. Không có tài năng, không có một khả năng khái quát, một tư duy chính trị sắc sảo, nhạy bén… không thể viết được ngắn gọn, sâu sắc như thế!
Như vậy ngụ ngôn chính trị của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh có hai hình thức cơ bản, một là mượn ngụ ngôn đã có, quen thuộc; hai là sáng tạo ra ngụ ngôn mới. Chúng tôi quan tâm hơn cả đến hình thức sáng tạo ngụ ngôn.
Nghệ thuật dựng truyện của ngụ ngôn rất quan tâm tới việc tìm ra các sự vật tiêu biểu hoặc gần gũi cho từng tính cách nhưng vẫn giữ được đặc trưng của nó. Điều này trong ngụ ngôn mới của Bác Hồ đã đáp ứng một cách xuất sắc, ví dụ trong Truyện ngụ ngôn thì chỉ con rồng mới có thể "phát ngôn" như thế này: "- Ta là thủy tổ của giống nòi An Nam từng chứng kiến sinh ra biết bao vị anh hùng lừng lẫy", vì trong tâm thức người Việt con rồng là vật tổ; "Rắn nói:… Tôi hay là những người Pháp khẩu phật tâm xà mà người An Nam đưa vào nước họ? Voi nói: Người An Nam sẽ muôn đời phải gánh chịu hậu quả những lỗi lầm mà họ vô tình phạm phải. Họ đã rước voi về giày mả tổ lại còn bỏ mặc cho người Pháp cái quyền lãnh đạo cả Tổ quốc của họ nữa", thì rắn và voi trong thành ngữ dân gian đều mang nét nghĩa tiêu cực: "khẩu phật tâm xà", "rước voi về giày mà tổ". Đặt những thành ngữ ấy vào lời của rắn và voi làm cho người đọc dễ nhớ vừa hàm ý một so sánh: giặc Pháp còn nguy hiểm hơn cả rắn và voi…
Ngụ ngôn thường giàu tính kịch, thường mỗi truyện là một vở kịch nhỏ, ngụ ngôn chính trị của Bác cũng mang đặc điểm này mà Con cáo và tổ ong là rất tiêu biểu. Câu chuyện dựng lên một mâu thuẫn: con cáo quyết lấy trộm mật, đàn ong quyết giữ con; kịch tính phát triển cao trào: đàn ong "kéo nhau xúm lại vây tròn cáo ta. Châm đầu châm mắt cáo già"; kết quả: "Cáo già đau quá phải sa xuống rồi". Có khi đó là một hài kịch như truyện Đồng tâm nhất trí. Đặc điểm của nhân vật hài kịch là có hành động, tính cách buồn cười gây cười, đi ngược lại với lô gích thông thường như nhân vật anh Hai và anh Ba: nhúng đồ giấy xuống nước sông, phơi trầu non giữa nắng trưa. Câu chuyện bật ra ý nghĩa: đoàn kết không phải là cứ máy móc làm theo nhau. Có những ngụ ngôn mang tính trào phúng rất rõ ở lời văn gây cười, như Động vật học, Bộ sưu tập động vật…
Đây là đoạn văn miêu tả "loài động vật":
"Kết quả những cuộc nghiên cứu kỹ càng cho phép chúng tôi khẳng định rằng nguồn gốc loài động vật này cũng lâu đời như nguồn gốc loài người, nếu không phải là lâu đời hơn nữa kia. Sự cấu tạo thể chất của nó hết sức kỳ lạ: ở tất cả các loài động vật, sự sinh sản ra lông lá thường là ở đằng đuôi; ở loài động vật này, lông lá lại mọc trên đầu; chỉ mọc trên đầu chứ không mọc ở cổ như bờm con ngựa. Lông lá này mịn màng như len và hung hung đỏ, hoặc cứng và đen, tuỳ theo khí hậu nơi nó sống. Khí hậu có ảnh hưởng rất nhiều đến màu da của nó. Màu da đỏ hoặc vàng hoặc đen, chớ ít trắng. Dù có những sự kỳ lạ đó, diện mạo của nó đôi khi cũng khá dễ thương. Loại động vật đi hai chân. Nhưng theo những tài liệu quan sát được tại nhiều vùng châu á, thì nhiều khi nó lại trở thành loài đi bốn chân".
Tả vật mà hoá ra tả người, tả người mà không phải người nhưng bạn đọc vẫn hiểu đó là người, đấy là nghệ thuật trào phúng miêu tả độc đáo. Bạn đọc vẫn hiểu, về nguồn gốc, về cấu tạo, như, "lông lá mọc trên đầu" là tóc, khí hậu quy định màu sắc của tóc, của da; con người đi bằng hai chân… Nhưng ở nhiều vùng châu á thì loài vật đó đi bằng bốn chân. Một sự mỉa mai thâm thuý vào thói quỳ gối cam chịu làm tay sai cho ngoại bang của một số ít người. "Loài đi bốn chân", theo nguyên chú của tác giả là "loài quan lại đứng theo tư thế Xalamếch". Xalamếch (phiên âm từ chữ Salamec) chỉ lối chào của người Arập, đầu cúi sát xuống đất.
Truyện ngắn là một mẫu mực của lời văn trào phúng, ở lời văn nhại: "… ông Giôdép Caiô, cựu Thủ tướng, nhà lý tài ngoại ngạch, một nhà văn không phải tồi, không phải tương đối tồi như Anhxtanh nói…"; ở lời văn giễu cả thần tượng "… Đácuyn, nhà đại thông thái Đácuyn, từng biết rằng con ngươi của một con ếch xứ Ôvécnhơ tròn hơn con ngươi của một con ếch ở vùng Nốttinhham, và đuôi chim bồ câu ở Mêchxich có nhiều hơn đuôi chim bồ câu ở Thuỵ Điển ba cái lông…"; kết hợp thủ pháp nhại với kết cấu đối lập, tăng cấp làm cho câu văn sống động: "óc bắt chước của nó rất phát triển, và óc đó không phải nông cạn như ở loài khỉ hay loài vẹt, vì người ta nhận thấy rằng tài bắt chước của nó thường đạt tới chỗ tuyệt khéo, và đôi khi còn hơn cả cái mà nó bắt chước nữa".
Tác phẩm ra đời cách nay trên 90 năm thế mà vẫn tươi mới, ở cái tình người, ở cách trào phúng hiện đại. Mới hay văn chương vì con người thì lúc nào đọc cũng thú vị!
Ngụ ngôn là một nghệ thuật vì xét về thực chất ngụ ngôn là một lối ví von được mở rộng, nâng cao mà bản thân lối ví von đã có tính nghệ thuật vì nó đòi hỏi sự liên tưởng thẩm mỹ phong phú. Ngụ ngôn Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cũng rất nghệ thuật, nghệ thuật ở mục đích là vì hạnh phúc con người mà phê phán cái ác, cái xấu, kêu gọi, cảnh tỉnh con người hướng về cái đẹp phổ quát của độc lập, tự do…; nghệ thuật ở chính bản thân thể loại ngụ ngôn; nghệ thuật ở cách biểu đạt, khi thì thâm thúy sâu sắc khi cần lại hết sức giản dị dễ hiểu.
Tôi muốn nhấn mạnh đến chất thơ trong ngụ ngôn chính trị của Người, đặc biệt là các ngụ ngôn viết năm 1942: Ca sợi chỉ, Hòn đá, Con cáo và tổ ong, Nhóm lửa, Chơi giăng. Có thể gọi đây là ngụ ngôn mang hình thức của thơ như trong ca dao - ngụ ngôn, như: Con cò mà đi ăn đêm, Con mèo mà trèo cây cau, Ếch cắn đầu rắn… Chúng là truyện vì cũng có nhân vật, có cốt truyện, có tình huống… nhưng được thể hiện bằng lời thơ. Như vậy chất thơ đã có ngay trong bản thân nó. Nếu hiệu quả của chất thơ phải xem xét ở sự giàu cảm xúc, ở khả năng lôi cuốn, truyền cảm làm rung động tình cảm người đọc… thì ngụ ngôn chính trị của Bác Hồ cũng dồi dào phẩm chất này. Các tác phẩm lấy đề tài là những gì hết sức giản dị, bình thường gần gũi với đại đa số người dân lao động: sợi chỉ, hòn đá, tổ ong, trăng…, những công việc quen thuộc: dệt vải, khuân đá, nhóm lửa…, những quy luật thông thường, phổ biến ai cũng hiểu được: một sợi chỉ thì mỏng manh yếu ớt, nhưng những sợi chỉ dệt thành tấm vải thì khó có thể "bứt xé"; một người không thể nhấc được hòn đá nặng nhưng nhiều người hợp sức lại thì nhấc lên dễ dàng… Dĩ nhiên những điều hết sức giản dị thông thường ấy chưa phải là nghệ thuật, nhưng chúng được dùng để hướng vào mục đích tuyên truyền đoàn kết góp phần tạo nên sức mạnh đánh giặc cứu nước thì nghệ thuật của nó lại nằm ở tính mục đích, một thứ nghệ thuật vì con người. Đặt vào hoàn cảnh nước ta những năm còn nô lệ thì cái mục đích cao nhất của cách mạng là giải phóng dân tộc để con người trở về với trạng thái người, do vậy mà những lời kêu gọi của Bác trở nên hết sức cần thiết, cấp bách, đầy tính người, nặng tình người. Chúng đã tạo ra thứ cảm xúc lớn lao nhất, truyền cảm nhất, lay động nhất để dễ dàng đi sâu vào tâm hồn mỗi người dân, cho dù khi đó họ còn không biết chữ, không hiểu cách mạng nhưng họ rất hiểu cái khao khát trong họ và đồng bào họ là thoát khỏi kiếp nô lệ… Tôi gọi những bài thơ - ngụ ngôn trên của Bác là nghệ thuật đích thực - một nghệ thuật tuyên truyền hết sức hiệu quả, sâu sắc, nhân văn./.
____________________________
(1), (2) Nhiều tác giả: Bác Hồ kính yêu, Nxb. Kim Đồng, H, 1970, tr.31, 60.
(3) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Văn học, H, 1970, tr.121.
(4) Nhiều tác giả: Bác Hồ sống mãi, Cục Chính trị Quân khu Ba, 1970, tr.22.
PGS. TS. Nguyễn Thanh Tú
Nguồn: Văn nghệ quân đội (MH)