Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người ra đi tìm đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam - Người tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đấu tranh giành lấy độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân.
Nguyễn Tất Thành sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho có truyền thống hiếu học, ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống yêu nước. Sinh ra và lớn lên trong cảnh đất nước lầm than, nhân dân cơ cực, với tinh thần yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, sự nhạy bén về chính trị, Người sớm tiếp cận với các tư tưởng lớn của phương Đông, hấp thụ truyền thống văn hóa của dân tộc và bước đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Khẩu hiệu “Tự do, bình đẳng, bác ái” của cuộc cách mạng Pháp năm 1789 đã gây ấn tượng mạnh mẽ và thôi thúc Người tìm hiểu “cái gì ẩn sau” những từ đẹp đẽ ấy ở chính nước sinh ra khẩu hiệu đó.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, phong trào cách mạng Việt Nam tuy rất sôi nổi nhưng lại bế tắc về đường lối và tổ chức, hầu hết đều bị thất bại trước sự đàn áp của thực dân Pháp. Người rất khâm phục các bậc tiền bối như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám… nhưng không đi theo con đường đấu tranh của các bậc tiền bối. Việc giải phóng đồng bào không phải là tìm xem nước nào giúp được mình mà điều quan trọng là phải đi ra nước ngoài nghe, tìm hiểu, xem xét nhân dân thế giới họ làm như thế nào rồi trở về giúp đồng bào mình.
Ngày 5/6/1911, từ bến cảng Nhà Rồng của thành phố Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh), trên con tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin (Latouche Tréville), Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Trong những năm xa xứ, vừa lao động kiếm sống, viết báo, vừa tiến hành khảo sát thực tiễn nhiều nước tư bản và các nước thuộc địa, khảo sát các cuộc cách mạng ở các nước Pháp, Anh, Mỹ…, Nguyễn Tất Thành đã có nhận thức quan trọng: cách mạng tư sản là những cuộc cách mạng vĩ đại, nhưng là những cuộc cách mạng chưa đến nơi. Nó đã phá tan gông xiềng phong kiến cùng những luật lệ hà khắc và những ràng buộc vô lý để giải phóng sức lao động của con người, nhưng cách mạng xong rồi dân chúng vẫn khổ, vẫn bị áp bức, bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Từ đó, Người đi đến kết luận, chúng ta đổ xương máu để làm cách mạng thì không đi theo con đường này.
Năm 1917, Nguyễn Tất Thành tham gia hoạt động trong phong trào của những người Việt Nam yêu nước tại Pháp. Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp. Ngày 18/6/1919, với tên Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi tới Hội nghị Vécxây bản yêu sách 8 điểm của nhân dân An Nam, yêu cầu về quyền tự do, dân chủ, bình đẳng dân tộc cho nhân dân An Nam. Tuy yêu cầu này không được chấp nhận, nhưng đã vạch trần bản chất giả dối của cường quốc thống trị. Người Pháp coi đây là quả bom làm chấn động dư luận nước Pháp, còn người Việt Nam lại coi đó là tiếng sấm của mùa xuân.
Bước ngoặt quan trọng trên hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc về vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc và về đảng cách mạng được mở ra lần đầu tiên khi Người tiếp xúc với “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đăng trên báo Nhân đạo (L’Humanité), tháng 7/1920, đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc những băn khoăn về con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc, trả lời câu hỏi ai là người lãnh đạo, lực lượng tham gia và mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc… Luận cương đã ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thế giới quan cộng sản của Nguyễn Ái Quốc. Sau này, khi kể lại sự kiện quan trọng này, Người đã nói: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta! Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III”. Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tháng 12/1920. Sự kiện này là một mốc lịch sử quan trọng trong hành trình đi tìm đường cứu nước của Người, đánh dấu bước chuyển biến quyết định, nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị của Người - từ một nhà yêu nước chân chính trở thành một chiến sĩ cộng sản. Đồng thời, sự kiện này cũng đánh dấu một bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam, mở đầu quá trình kết hợp đấu tranh giai cấp với đấu tranh dân tộc, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tinh thần yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Quá trình tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin của Nguyễn Ái Quốc ngày càng có hệ thống và hoàn thiện khi Người tham gia Đảng Cộng sản Pháp, sang Liên Xô sống trong không khí sục sôi của trung tâm phong trào cộng sản và học tập ở Đại học Phương Đông, hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, nhận thức của Người về sức mạnh của nhân dân lao động thế giới, về mối quan hệ giữa các dân tộc bị áp bức, giữa cách mạng ở các thuộc địa và các nước chính quốc trong đấu tranh chống đế quốc, về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, về chính quyền cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng… ngày càng sâu sắc và có những luận điểm bổ sung, phát triển, sáng tạo.
Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc), bắt đầu cho công việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, khơi dậy tinh thần đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, xây dựng tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, phát triển lực lượng cách mạng… Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do Người soạn thảo được thông qua tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam vào năm 1930, chứng tỏ tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc về con đường cách mạng Việt Nam đã được hình thành rõ nét.
Sau 30 năm xa Tổ quốc, ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng. Một trang sử mới mở ra trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người và cũng là bước ngoặt mới cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam.
Việc Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước, con đường phát triển của dân tộc có ý nghĩa lịch sử to lớn:
Một là, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, với học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học, Nguyễn Ái Quốc đã đặt nền móng cho lý luận cách mạng Việt Nam trong thời đại mới; chấm dứt khủng hoảng đường lối cứu nước triền miên từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX; tìm thấy đường lối phát triển đúng đắn cho dân tộc, phù hợp với trào lưu tiến hóa chung của nhân loại và xu thế của thời đại.
Hai là, Nguyễn Ái Quốc đã đem ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường cho phong trào yêu nước, chủ nghĩa truyền thống Việt Nam, làm cho chủ nghĩa yêu nước vươn lên tầm thời đại, trở thành chủ nghĩa yêu nước thời đại Hồ Chí Minh, mà sau này biểu tượng sáng chói trong hai cuộc kháng chiến lừng lẫy của dân tộc trong đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong công cuộc tái thiết và phát triển đất nước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ba là, với việc tìm ra con đường cứu nước, phát triển của dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đóng góp to lớn, thiết thực chuẩn bị cho việc mở ra một giai đoạn phát triển mới của phong trào cách mạng vô sản nói chung, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới và châu Á nói riêng.
Nhân kỷ niệm 107 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, chúng ta có dịp ôn lại thân thế, sự nghiệp vĩ đại của Người, khẳng định công lao to lớn mà Người đã tìm ra con đường đúng đắn nhất để giải phóng dân tộc Việt Nam thoát khỏi lầm than, nô lệ, đi đến vinh quang. Đây cũng là dịp để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nêu cao trách nhiệm, nỗ lực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn.
Nguồn: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thái Nguyên (MH)