Đảng Cộng sản Việt Nam - Quyết định thành công mục tiêu phát triển đất nước giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc
TÓM TẮT: Từ khi ra đời cũng như trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã khơi dậy và phát huy mạnh mẽ khát vọng dân tộc độc lập, Tổ quốc thống nhất, nhân dân tự do, hạnh phúc, đưa đất nước phát triển “sánh vai với các cường quốc năm châu” như ước nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh mới, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” , Đại hội XIII của Đảng đã xác định mục tiêu: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” . Đây là khát vọng chính đáng, vì lợi ích của toàn dân, thể hiện sự thống nhất, bất biến trong tư tưởng, tình cảm, ý chí, hành động trong toàn Đảng, toàn dân ta. Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, niềm tin và ý chí đồng lòng của toàn dân là nhân tố quan trọng nhất, có tính quyết định để đạt tới mục tiêu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
1. Quan điểm của Đảng về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và Nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đưa đất nước phát triển “sánh vai với các cường quốc năm châu” - phồn vinh, hạnh phúc như ước nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ khi đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, mỗi kỳ đại hội của Đảng đều có một số điểm nhấn tạo ấn tượng sâu đậm trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo nên sự thống nhất, đồng thuận, tin tưởng trong Đảng và trong xã hội. Điểm lại các kỳ đại hội Đảng gần đây, chúng ta thấy đều có điểm nhấn quan trọng, là định hướng để phát triển đất nước: Điểm nhấn của Đại hội VI là đại hội của đổi mới toàn diện đất nước, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; Đại hội VII là Đại hội đề ra Cương lĩnh phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Đại hội VIII là Đại hội đề ra chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Đại hội IX là Đại hội xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ; Đại hội X là Đại hội xác định mục tiêu đưa đất nước sớm ra khỏi tình trạng nước kém phát triển; Đại hội XI là Đại hội ban hành Cương lĩnh bổ sung, phát triển và quyết định đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, hội nhập quốc tế; Đại hội XII là Đại hội chủ trương xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế... Và Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc... phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[1].
Chúng ta đặt nhiều niềm tin vào khát vọng sẽ trở thành hiện thực. Niềm tin ấy là có cơ sở. Bởi vì, trải qua hơn 35 năm đổi mới, hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta đã thực sự thay da, đổi thịt. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nền kinh tế Việt Nam được Tạp chí Kinh tế Thế giới xếp vào một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới. Đời sống Nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 3.000 USD, văn hóa, xã hội có sự phát triển mạnh mẽ; công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và hệ thống chính trị từng bước được đổi mới, kiện toàn và ngày càng vững mạnh; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố; sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền của đất nước được giữ vững.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định rõ lộ trình với các mục tiêu cụ thể: Đến năm 2025, là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Đó chính là khát vọng và tầm nhìn của Đảng cách mạng và Nhân dân Việt Nam.
Để hiện thực hóa khát vọng của dân tộc, Nghị quyết Đại hội xác định rất nhiều nhiệm vụ, giải pháp cụ thể trên từng lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh, quốc phòng, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị; đặc biệt, Đại hội đã xác định 3 đột phá chiến lược, đó là:
Thứ nhất, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính, hợp tác công - tư; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật.
Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội; ưu tiên phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu; chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số.
Với quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị và đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, đặc biệt là cán bộ chủ chốt các cấp cần tập trung thực hiện tốt Chỉ thị 01-CT/TW, ngày 9/3/2021 của Bộ Chính trị về “Nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”, tạo sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức, thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, sự đồng thuận cao trong nhân dân; cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đồng thời, phải khẩn trương xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng gắn với chức năng, nhiệm vụ, phù hợp với đặc điểm tình hình và điều kiện thực tế của địa phương, cơ quan, đơn vị, thể hiện sự quyết tâm, sáng tạo và bảo đảm tính khả thi, thiết thực, hiệu quả.
2. Nâng caovai trò lãnh đạo của Đảng để thực hiện thành công khát vọng phát triển đất nướcphồn vinh, hạnh phúc
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí quật cường của cả dân tộc đã được khơi dậy, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn vượt qua mọi gian khổ, hy sinh để giành chiến thắng trong các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm ở thế kỷ XX. Trong bối cảnh mới, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta bước vào thế kỷ XXI, hội nhập với thế giới hiện đại, thời kỳ công nghệ 4.0 cùng biết bao nhiêu biến động ở trong nước và quốc tế khó lường. Để vượt qua những khó khăn, thách thức của thời đại, đưa dân tộc ta phát triển phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc trên thế giới theo tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tập trung vào những nội dung chính sau đây:
Một là, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Ngay từ đầu và trong suốt quá trình đổi mới, Đảng ta luôn khẳng định: trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng xác định: “Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[2].
Như vậy, trong đường lối đổi mới, ngay từ đầu Đảng ta đã thể hiện sự kiên định về nguyên tắc chiến lược cách mạng, xác định dứt khoát đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng nước ta, là sự lựa chọn sáng suốt của Bác Hồ và của Đảng ta. Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng quyết định hướng đi đúng và hiệu quả của quá trình đổi mới đất nước, là cơ sở để thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Công cuộc đổi mới đất nước 35 năm qua đã chứng minh tính đúng đắn của sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng là giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhờ có sự kiên định đó mà Đảng ta đã tránh được những sai lầm, thiếu sót trong quá trình đổi mới đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Qua 35 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bộ mặt đất nước, đời sống của nhân dân thật sự thay đổi; dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và mở rộng; đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường; sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao…
Công cuộc đổi mới đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới với tốc độ tăng trưởng ngày càng cao. Các thế lực thù địch đang đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vẫn là mục tiêu cơ bản, lâu dài, là định hướng cực kỳ quan trọng. Để tiếp tục giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới, cần phải luôn luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng - nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi và chiều hướng phát triển của cách mạng; kiên định nguyên tắc chiến lược cách mạng, nhưng rất linh hoạt sáng tạo trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới, giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trên quan điểm lập trường của giai cấp công nhân. Phải kiên định, nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam để có đường lối và phương pháp cách mạng đúng. Thực hiện sự nghiệp đổi mới trên cơ sở bảo vệ, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc và những thành quả đã đạt được cần kết hợp với kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm sai trái gây hoang mang, dao động, mất phương hướng.
Hai là, tăng cường xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”[3]. Đây là bốn mặt của công tác xây dựng Đảng, có quan hệ mật thiết, là tiền đề của nhau; đồng thời là đòi hỏi cấp bách, nội dung trọng tâm trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị là quá trình xây dựng cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan và tổ chức thực hiện thắng lợi cương lĩnh, đường lối đó trong thực tiễn, bảo đảm cho quyền lực chính trị và vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng không ngừng được củng cố và nâng cao. Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với Đảng, mà cả đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta, là tiền đề cho công tác xây dựng Đảng về mọi mặt.
Xây dựng Đảng vững vàng về tư tưởng, tiên phong về lý luận là một trong những nhiệm vụ cơ bản, có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, góp phần giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng, niềm tin của cán bộ, đảng viên đối với Đảng ta và chế độ xã hội chủ nghĩa; tạo sự đoàn kết thống nhất về tư tưởng, ý chí và hành động trong Đảng và toàn xã hội, góp phần quan trọng đảm bảo cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận giành thắng lợi.
Xây dựng Đảng trong sạch về đạo đức là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng, tạo nên uy tín và lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Do đó, xây dựng Đảng trong sạch về đạo đức trở thành vấn đề cấp bách; vì đạo đức cách mạng là “cái gốc” của mỗi cán bộ, đảng viên, của mỗi tổ chức đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Đạo đức là gốc của người cách mạng”; “Không có đạo đức cách mạng thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”[4]. Tuy nhiên, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên “không phải từ trên trời rơi xuống” mà phải được nhận thức đầy đủ, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện. Vì vậy, các tổ chức đảng phải thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên nhận thức đầy đủ ý nghĩa của đạo đức cách mạng, của việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức; phải thường xuyên xây dựng ý thức tự phê bình và phê bình, rèn luyện thói quen, hành vi đạo đức, ý chí phấn đấu, hy sinh, tính kỷ luật, tinh thần trách nhiệm… cho cán bộ, đảng viên.
Xây dựng Đảng tinh gọn về tổ chức và nâng cao chất lượng cán bộlà khâu đầu tiên để đổi mới công tác tổ chức của Đảng. Xây dựng Đảng về tổ chức và cán bộ cần tập trung xây dựng, kiện toàn mô hình tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị thật sự khoa học theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6, khóa XII; xây dựng đội ngũ cán bộ vững về chính trị, tư tưởng, trong sạch về đạo đức; nâng cao về trình độ, năng lực, nghiêm minh về kỷ luật; thể chế hóa và hoàn thiện các quy chế, quy định về công tác tổ chức và cán bộ, tăng cường kiểm tra, giám sát công tác tổ chức và cán bộ.
Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ có quan hệ mật thiết với nhau, là tiền đề của nhau; đồng thời là đòi hỏi cấp bách, nội dung trọng tâm trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Đòi hỏi các tổ chức đảng phải thường xuyên tuyên truyền, giáo dục, quán triệt sâu sắc, rộng rãi cho mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng trong bất kỳ hoàn cảnh nào; làm cho mỗi cán bộ, đảng viên và người dân nhận thức sâu sắc, đầy đủ và tạo sự đồng thuận trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Đồng thời, phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể, cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò của công tác tư tưởng, lý luận; tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh và điều kiện mới; gắn nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức và đội ngũ cán bộ với cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Công tác tổ chức và cán bộ phải góp phần quan trọng trong việc sàng lọc cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất; kiên quyết không để những kẻ cơ hội núp bóng tổ chức để mưu lợi cho bản thân...
Ba là, tiếp tục đi sâu học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Cùng với việc tiếp tục học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách toàn diện, đúng đắn, đầy đủ, nghiêm túc, vấn đề đặt ra có tính chiến lược cần đặc biệt nhấn mạnh đối với mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị và đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức là phải đi sâu, hiểu kỹ, để có nhận thức đúng đắn, suy nghĩ, làm theo, tạo cho mình phong cách, lối sống có ý chí, nghị lực, đủ bản lĩnh thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng cũng như các nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ, của các cấp uỷ Đảng đều xác định những phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể đưa nước ta tiến lên xây dựng một Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc; một Việt Nam hùng cường, một nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã luôn là khát vọng mãnh liệt của bao thế hệ lãnh đạo và người dân Việt Nam. Khát vọng ấy đã hiệu triệu, khơi dậy lòng yêu nước, hun đúc tinh thần đoàn kết và sưc smạnh của nhân dân toàn dân tộc, làm nên những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử trong quá trình bảo vệ và xây dựng phát triển đất nước. Thành tựu hơn 35 năm đổi mới là kết quả đáng tự hào nhưng cũng đặt ra những kỳ vọng, những trách nhiệm, những thách thức lớn lao cùng với những đòi hỏi cụ thể trước mắt, lâu dài đối với mỗi người dân Việt Nam. Vì vậy, khát vọng phát triển Việt Nam giàu mạnh, hùng cường lại càng mãnh liệt và sục sôi hơn bao giờ hết.
Để biến khát vọng thành hiện thực, chúng ta phải thấm sâu ý chí, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhận rõ con đường phía trước, thấy được những khó khăn, thách thức, thuận lợi, thời cơ để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chiến lược trong từng giai đoạn 5 năm, 10 năm, 20 năm, 30 năm tiến tới tầm nhìn năm 2045. Chiến lược phát triển tổng thể trong giai đoạn tới là phát triển nhanh, mạnh, bền vững, bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó chú trọng vào bốn trụ cột chính gồm: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Đây là sự chỉ đạo của Đảng có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu bước phát triển mới của đất nước, định hướng tương lai, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước. Chỉ có trên cơ sở thấu hiểu, học tập, làm theo ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cá nhân mới tự xây dựng, bồi dưỡng, củng cố niềm tin vững chắc cho ý chí tự lực, tự cường, khát vọng cho mình góp phần phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Khát vọng dân tộc có vai trò rất quan trọng, là động lực trung tâm tạo nên sức mạnh vô song cho dân tộc. Khát vọng dân tộc, nếu được định hướng và hình thành dựa trên những đường lối, chủ trương đúng đắn sẽ trở thành nguồn năng lượng nội sinh tiềm tàng và sống động cho toàn bộ quá trình phát triển. Trong giai đoạn hiện nay, khát vọng phát triển đất nước được Đảng, Nhà nước ta đề ra chính là hướng tới quốc gia phồn vinh và hạnh phúc. Để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước, cần phải huy động nhiều nguồn lực khác nhau, trong đó, quan trọng, chính yếu nhất, quyết định nhất là phải giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và niềm tin của nhân dân. Chúng ta có niềm niềm tin sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng, một Đảng cách mạng chân chính, luôn vì Dân, vì Nước sẽ lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân vượt qua mọi khó khăn, thử thách, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc, xứng đáng với niềm mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh là:“Dân tộc Việt Nam sẽ bước tới đài vinh quang, sánh vai với các cường quốc năm châu”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, trang 25, 215, 112 và 180.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb
Sựthật, Hà Nội, 1987, trang 37.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 292, 327.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQG, H,2021, tr. 112
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQG, H.2021, tr.180.
[4] Hồ Chí Minh,
Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.2011, tr.292, tr.327.
Ths. Võ Văn Ninh Giang - Trường Chính trị tỉnh Bình Dương